LỜI GIỚI THIỆU
Thực hiện chỉ đạo của
Tỉnh uỷ và UBND Tỉnh, Sở Khoa học và Công nghệ
phối hợp với Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ và Sở
Văn hoá - Thông tin tổ chức Hội thảo khoa học
Phú Yên 395 năm h́nh thành và phát triển (1611-2006), cùng với
kết quả của cuộc Hội thảo khoa học
xác định mốc thời gian h́nh thành tỉnh Phú Yên tổ
chức ngày 29/4/2003, để phổ biến các báo cáo khoa
học và các tham luận nổi bật trong hai cuộc hội
thảo, Ban biên tập đă được thành lập và
tổ chức hiệu đính, biên tập và hệ thống
lại các bài viết, bổ sung các tư liệu liên quan
để hoàn thành tập kỷ yếu này. Tập kỷ yếu
ra đời giới thiệu diện mạo và các sự
kiện lịch sử tiêu biểu của tỉnh Phú Yên, là
một tài liệu tham khảo trong nghiên cứu và chuẩn
bị cho tổ chức kỷ niệm 400 năm Phú Yên vào
năm 2011.
Ban biên tập chân thành cám ơn sự quan
tâm chỉ đạo và đóng góp tích cực của các
đồng chí lănh đạo Tỉnh, các đồng chí lăo
thành cách mạng, các nhà nghiên cứu về lịch sử và
văn hoá Phú Yên đă dành nhiều thời gian và tâm huyết
cho các nội dung của tập kỷ yếu.
Mặc
dù có nhiều cố gắng, nhưng do thời gian thực
hiện ngắn, tập kỷ yếu không tránh khỏi những
thiếu sót, Sở KH&CN mong nhận được những
ư kiến đóng góp của các đồng chí và các bạn
để hoàn thiện trong lần xuất bản sau.
BAN
BIÊN TẬP
MỤC
LỤC
--------
7 |
|
2.
Đề dẫn khoa
học Phú Yên 395 năm h́nh thành và phát triển của Đ/c Nguyễn Văn Dũng, Giám
đốc Sở KH&CN tỉnh Phú Yên |
11 |
CÁC CHUYÊN ĐỀ VỀ
MỐC H̀NH THÀNH TỈNH PHÚ YÊN |
15 |
17 |
|
23 |
|
29 |
|
33 |
|
38 |
|
44 |
|
CÁC CHUYÊN ĐỀ VỀ PHÚ YÊN
395 NĂM H̀NH THÀNH |
47 |
49 |
|
58 |
|
92 |
|
117 |
|
148 |
|
176 |
|
202 |
|
230 |
|
273 |
|
315 |
|
PHẦN PHỤ LỤC |
347 |
- Danh sách đại biểu
tham dự Hội thảo khoa học xác định mốc
|
349 |
- Biên bản Hội thảo
khoa học Phú Yên 395 năm h́nh thành |
355 |
KHAI MẠC HỘI THẢO KHOA HỌC
PHÚ YÊN 395 NĂM H̀NH THÀNH VÀ PHÁT
TRIỂN
của đồng chí Lê Kim Anh - Phó Chủ
tịch UBND tỉnh
---------
Kính
thưa:
- Đ/c Vũ Văn Thoại
- Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy-
Trưởng ban Tuyên giáo Tỉnh
uỷ.
- Thưa
các nhà khoa học, sử học, các đồng chí cách
mạng lăo thành, các đồng
chí lănh đạo chủ chốt của Tỉnh.
-
Thưa các vị đại biểu.
Hôm
nay tôi rất vui mừng được thay mặt UBND Tỉnh
đến dự Hội thảo, được gặp gỡ
các nhà khoa học, sử học, các vị cách mạng lăo
thành có nhiều thông tin tư liệu và thực tiễn về
vùng đất Phú Yên, để cùng thực hiện chỉ
đạo của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ về
tổ chức kỷ niệm 395 năm Phú Yên với nhiều
nội dung phong phú đa dạng, để rút kinh nghiệm
chuẩn bị kỷ niệm 400 năm Phú Yên một cách
hoành tráng với nhiều ư nghĩa chính trị, văn hoá và
xă hội sâu sắc nhất. Hội thảo khoa học về
diện mạo và các sự kiện tiêu biểu 395 năm
Phú Yên là công việc nối tiếp của cuộc Hội
thảo đă tổ chức vào tháng 4-2003 về xác định
mốc thời gian có danh xưng Phú Yên, nhằm tiếp tục
sưu tầm hệ thống lại các tài liệu về
diện mạo, các sự kiện, nhân vật quan trọng
trong các giai đoạn lịch sử để biên soạn
hoàn chỉnh bộ lịch sử Phú Yên phục vụ kỷ
niệm 400 năm Phú Yên vào năm 2011. Các thông tin tư liệu
qua hai cuộc Hội thảo sẽ được phổ
biến rộng răi trong nhân dân nhằm giáo dục truyền
thống, tưởng nhớ các vị tiền nhân đă có
công khai phá mở đất, xây dựng và phát triển Phú
Yên cho đến ngày nay.
Theo
một số huyền sử, huyền thoại c̣n ghi lại
vùng đất Phú Yên xưa kia thuộc một vương
quốc hưng thịnh với nền văn hoá phát triển
có nhiều bang giao quốc tế với các nước láng giềng khu vực. Năm
1471 trên đường Nam tiến vua Lê Thánh Tông đă dừng
chân tại vùng đất non thanh thủy tú này và cho tạc
bia kỷ niệm trên tảng đá lớn nhất của
ngọn núi cao nhất mà ngày nay nhân dân gọi là núi Đá
Bia. Huyền
thoại này đă khắc sâu vào đời sống của
nhân dân Phú Yên chúng ta.
Nhưng
lịch sử với tài liệu thành văn tương
đối đủ bắt đầu từ năm 1578
khi Chúa Nguyễn Hoàng cử ông Lương Văn Chánh vào
chiêu tập nhân dân, khẩn hoang, lập làng, mở mang bảo
vệ bờ cơi phương Nam. Công trạng to lớn của
Ông được triều đ́nh sắc phong và nhân dân tôn
kính lập đền thờ ghi công và tôn làm Thành Hoàng.
Thưa
các vị đại biểu.
Vào
tháng 4-2003, Tỉnh chúng ta đă có cuộc Hội thảo
khoa học để thảo luận, xác nhận và tŕnh
lănh đạo Tỉnh quyết định lấy năm
1611, năm mà Chúa Nguyễn Hoàng cử Chủ sự Văn
Phong vào bảo vệ bờ cơi phương Nam và lập phủ
Phú Yên (gồm 2 huyện Đồng Xuân và Tuy Hoà) làm năm
h́nh thành đơn vị hành chính cấp tỉnh đầu
tiên của vùng đất này, chính là Tỉnh Phú Yên ngày nay, từ
khi có danh xưng Phú Yên đến nay cũng đă tṛn 395
năm.
Từ
đó, chúng ta có thể chia thời gian h́nh thành và phát triển
Phú Yên thành 3 giai đoạn:
+ Trước
năm 1611: Hiện nay đang và sẽ nghiên cứu cụ
thể.
+ Từ
năm 1611-1930: Từ khi có phủ Phú Yên đến khi Chi bộ
Đảng Cộng sản Việt Nam Tỉnh Phú Yên thành lập,
là khoảng thời gian chưa có mấy công tŕnh nghiên cứu.
+ Từ
1930 – đến nay: Đă được nghiên cứu biên
soạn và có tài liệu tương đối đầy
đủ có thể hệ thống lại để
đưa vào tài liệu.
Tại cuộc
Hội thảo này, Tôi đề nghị chúng ta tập trung
vào giai đoạn 1611-1930 để thống nhất tư
liệu, để có thể nh́n thấy diện mạo và
các sự kiện tiêu biểu 395 năm Phú Yên.
Chúng ta
đă có một số sách, bài viết về Phú Yên như
Địa chí Phú Yên, Non nước Phú Yên của Nguyễn
Đ́nh Tư, một số nghiên cứu của nhiều
nhà khoa học như Nguyễn Đ́nh Đầu, Trần Bạch
Đằng,… và một số tài liệu trên tạp chí
Xưa và Nay là những tư liệu quư để tham khảo.
C̣n việc xác định diện mạo Phú Yên 395 năm tiến
đến Phú Yên 400 năm cần có sự làm việc nghiêm
túc, cần mẫn của chúng ta để có được
sự thống nhất qua các Hội thảo như hôm nay
là rất quan trọng. Sau Hội thảo này, đề nghị
Sở KH&CN tập hợp tài liệu, qua hai lần Hội
thảo: (1)- Hội thảo xác định mốc thời
gian thành lập đơn vị hành chính tỉnh Phú Yên; (2)-
Hội thảo Phú Yên 395 năm h́nh thành và phát triển; bổ
sung, chỉnh lư phù hợp để in thành kỷ yếu
tham khảo và làm nền tảng quan trọng cho các nghiên cứu,
sáng tác phục vụ kỷ niệm 400 năm Phú Yên.
Thay mặt
UBND tỉnh Tôi xin khai mạc Hội thảo. Chúc các đồng
chí sức khoẻ, chúc Hội thảo thành công tốt đẹp.
Xin trân
trọng cám ơn.
Cuối tháng 4-2003, thực
hiện ư kiến chỉ đạo của lănh đạo
tỉnh Phú Yên, Sở Khoa học và Công nghệ Phú Yên phối
hợp với Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ, Sở Văn hoá
–Thông tin, cùng một số cơ quan và ngành hữu quan trong
tỉnh tổ chức cuộc hội thảo với chủ
đề “Xác định mốc
thời gian h́nh thành Phú Yên”.
Tham dự cuộc hội
thảo, ngoài lănh đạo tỉnh, các cơ quan và các nhà
nghiên cứu địa phương có liên quan đến chủ
đề hội thảo c̣n có các giáo sư, tiến sĩ,
các nhà nghiên cứu thuộc lĩnh vực khoa học xă hội-
nhân văn, các nhà báo ,…ở các
cơ quan nghiên cứu KHXH-NV Trung ương và Thành phố Hồ
Chí Minh như: Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam,
Hội đồng KHXH Tp Hồ Chí Minh, Tạp chí Xưa và
Nay,…
Qua
các chuyên đề khoa học, các báo cáo tham luận, các phát
biểu và các ư kiến, kiến giải tại hội thảo,
hội thảo đi đến nhất
trí đề nghị chọn năm 1611 (Tân Hợi) là
năm khai sinh, năm thành lập Phú Yên; đề nghị
chọn là năm mốc để tổ chức kỉ niệm
395 năm (1611-2006), kỷ niệm 400 năm (1611-2011) Phú Yên
h́nh thành và phát triển.
Việc xác định năm 1611 (Tân Hợi)
là năm sinh đơn vị hành chính đầu tiên có tên
Phú Yên là kết tinh của cả quá tŕnh nghiên cứu, là
đúc kết trên cơ sở các kiến giải, luận
cứ khoa học của nhiều nhà khoa học, nhà nghiên cứu
qua đối chiếu nhiều sử liệu, đảm
bảo tính khách quan, tính chân thật lịch sử. Đó là
năm: Nguyễn Hoàng lấy
đất lập ra một phủ mới là phủ Phú Yên
thuộc dinh Quảng
Với việc lập phủ
Phú Yên, chúa Nguyễn đă xác lập hẳn quyền cai trị
của ḿnh trên một miền đất đă có người
Việt sống khá đông, có cuộc sống khá ổn
định; chấm dứt sự tranh chấp trên một
vùng đệm để yên
tâm đối phó với chúa Trịnh ở Đàng Ngoài.
Việc xác định
năm 1611 (Tân Hợi) là năm thành lập đơn vị
hành chính đầu tiên có tên Phú Yên có ư nghĩa đặc biệt
quan trọng. Đó là cơ sở để tổ chức
các hoạt động giáo dục truyền thống cho cán
bộ và nhân dân trong tỉnh, giáo dục ư thức và ḷng yêu
quê hương, tinh thần uống nước nhớ nguồn,
ăn quả nhớ kẻ trồng cây, ḷng biết ơn
đối với tiền nhân - những người đầu
tiên vào mở cơi; giáo dục ư thức đoàn kết giữa
các dân tộc. Đồng thời cũng là cơ sở
để tổ chức các hoạt động nhằm quảng
bá các đặc điểm văn hoá của đất và
người Phú Yên, các sản phẩm mang tính đặc
trưng truyền thống của quê hương Phú Yên, từ
đó thu hút đầu tư, góp phần tạo động
lực phát triển kinh tế xă hội, góp phần đẩy
mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá Phú Yên.
Năm 2006, thực hiện
chủ trương của lănh đạo tỉnh về tổ
chức các hoạt động để kỉ niệm 395
năm thành lập Phú Yên, Sở Khoa học và Công nghệ
Phú Yên phối hợp với các ngành hữu quan triển khai hoạt động nghiên cứu
một số nội dung về diện mạo và các sự
kiện lịch sử của địa phương Phú
Yên qua 395 năm h́nh thành và phát triển - làm tiền đề
để tiến tới kỉ niệm 400 năm h́nh thành
và phát triển Phú Yên. Sở
Khoa học và Công nghệ đă liên hệ với một số
nhà nghiên cứu có bài tham dự tại đợt hội thảo
tháng 4-2003 tu chỉnh lại báo cáo khoa học; mời các
cơ quan, cá nhân là các nhà nghiên
cứu KHXH &NV tham gia viết các báo cáo khoa học, các
chuyên đề; thông báo đến các cơ quan và trên
phương tiện thông tin đại chúng để các tổ
chức, cá nhân tham gia bài viết gửi về Ban tổ chức hội thảo để
tổ chức đợt hội thảo lần này. Sau hội
thảo, Sở Khoa học và Công nghệ phối hợp với các cơ quan,
cá nhân có trách nhiệm để tuyển chọn bài, tư
liệu, h́nh ảnh,… biên tập và xuất bản thành
sách để thông tin, tuyên truyền
rộng răi đến mọi đối tượng nhân
đợt sinh hoạt truyền thống 395 năm đất
và người Phú Yên.
Nội dung hội thảo
lần này tập trung vào các vấn đề sau:
Các chặng
đường lịch sử từ 1611 đến 2005;
Bước phát triển
kinh tế- xă hội qua từng giai đoạn lịch sử
từ khi xác lập Phú Yên đến thời điểm
năm 2005 (lưu ư các giai
đoạn: thời các Chúa Nguyễn mở đất, thời
phong trào nông dân Tây Sơn và triều Tây Sơn, thời triều Nguyễn, thời chống
Pháp - chống Mỹ, giai đoạn 1975-2005).
Nghiên cứu về địa
lư hành chính, thiết chế hành chính qua các thời kỳ;
Các phong trào yêu nước, đấu tranh
chống Pháp.
Do thời gian chuẩn bị
cho hội thảo ngắn, thời gian để các tổ
chức, cá nhân nghiên cứu, viết bài tham gia hội thảo
quá ít nên chắc rằng c̣n phải gia công nhiều để
nâng cao chất lượng các báo cáo, các chuyên đề khoa
học liên quan đến các nội dung mà hội thảo
đề ra. Để góp phần làm rơ hơn, chuyên sâu hơn,
bảo đảm tính chính xác, tính khoa học và chân thực
lịch sử của các nội dung nghiên cứu, các đại
biểu tham dự hội thảo có thể nêu ra, phản
biện lại các kiến giải, nhận định, luận
cứ, cả sự khác biệt về các tư liệu lịch
sử…mà các báo cáo khoa học đă có tại hội thảo.
Các đại biểu dự hội thảo có thể phát
biểu tại hội trường, có thể viết phiếu
ư kiến hoặc có thể viết bài phản biện,
đóng góp bổ sung cho hội thảo.
Thay mặt Chủ tŕ hội
thảo, chúc các vị đại biểu có nhiều ư kiến,
nội dung đóng góp sâu sắc, có chất lượng
để hội thảo thành công tốt đẹp.
Trân trọng kính chào.
CÁC
CHUYÊN ĐỀ VỀ MỐC HÌNH THÀNH TỈNH
PHÚ YÊN
Đất Phú Yên h́nh
thành từ lâu. Cuộc hội thảo không nói đến lịch
sử của vùng đất xuất hiện cùng với các
bộ tộc có mặt xa xưa, nhiều ngh́n năm
trước, mà muốn gắn nó với th́ hiện tại,
tức từ khi Phú Yên gia nhập vào lănh thổ Đại
Việt.
Trong phạm vi ư nghĩa ấy,
cuộc hội thảo đă phân tích những mốc thời
gian theo chủ đề của sự h́nh thành tỉnh Phú
Yên, tức h́nh thành một đơn vị hành chính với
tên “Phú Yên” – dù c̣n là trấn, là phủ, trước khi là tỉnh
(đơn vị tỉnh của nước ta chỉ tổ
chức dưới thời Minh Mạng). Như vậy,
tiêu chí định ra cái mốc là thời gian tên Phú Yên trên một
địa bàn cụ thể.
Hội thảo xem xét niên
lịch 1471, năm vua Lê Thánh Tông hành quân vào
Cái mốc thứ
hai: Năm 1578, chúa Nguyễn Hoàng giao cho ông Lương
Văn Chánh chiêu mộ dân đến vùng đất từ
đèo Cù Mông đến đèo Cả để khẩn
hoang. Mốc thời gian cũng được hội thảo
xem xét và thấy rằng một cuộc khai hoang lập ấp
dù đạt quy mô đến đâu vẫn chưa phải
đă chính thức được xây dựng thành tổ chức
quản lư chính quyền. Nó giống trường hợp
đất Đồng Nai về sau – khi Nguyễn Hữu Cảnh
vào kinh lư năm 1698 th́ đất Đồng Nai – Gia Định
đă có 4 vạn hộ người Việt định
cư rồi; nhưng trước năm 1698, đất
Đồng Nai – Gia Định chưa là đơn vị
hành chính của Đàng Trong.
Mốc thứ ba: Năm
1611, chúa Nguyễn sai Chủ sự tên là Văn Phong lập
hai huyện Đồng Xuân và Tuy Ḥa, đặt phủ Phú
Yên thuộc dinh Quảng
Từ 1611, phủ Phú Yên
có khi phát triển thành dinh Phú Yên và tỉnh Phú Yên, sau giải
phóng hoàn toàn miền Nam, nhập với Khánh Ḥa thành tỉnh
Phú Khánh và trở lại tên cũ. Phú Yên ngày nay là một
trong 64 tỉnh, thành của Việt
T́m cột mốc của
Phú Yên đương nhiên không phải đi ngược
ḍng lịch sử đối với cả khu vực này –
đó là vấn đề nên làm, nhưng để giải
quyết một yêu cầu khác mà chắc chắn địa
chí tỉnh Phú Yên sẽ làm. Sự ra đời của khu vực
Phú Yên, giới hạn thiên nhiên bởi đèo Cù Mông phía Bắc,
đèo Cả phía Nam (c̣n gọi là Đại Lănh), Trường
Sơn và các h́nh thức quản lư của đồng bào dân
tộc phía Tây, đại dương phía Đông – một
địa lư tự nhiên và cũng có thể là địa lư
lịch sử khá hoàn chỉnh trong một giai đoạn
nhất định. Công lao tạo lập Phú Yên mà người
đương thời được hưởng thuộc
về nhân dân lao động nhiều dân tộc, bộ tộc
và được điều khiển bởi nhiều thể
chế khác nhau, trước khi nó gia nhập vào đại
gia đ́nh Đại Việt.
Xin được nói
thêm: Chúng ta sắp kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long, lấy
ngày vua Lư Thái Tổ dời đô (năm 1010) trong khi vùng đất sẽ là thủ đô nước
ta có mặt trước khá lâu với các tên: Luy Lâu, Long Biên…
tỉnh Thái B́nh vừa kỷ niệm 100 năm ngày thành lập,
Phú Thọ cũng vậy, dù mảnh đất Thái B́nh dính
với lịch sử không thể ít hơn vài ngh́n năm,
c̣n Phú Thọ lại là cái nôi tự thuở vua Hùng.
Mục đích của cuộc
hội thảo – được tổ chức sát ngày miền
Vào năm 2006, với cái
mốc đă chọn lựa, sau khi tŕnh cho các cơ quan khoa
học Trung ương, Trung ương Đảng và Chính
phủ, Phú Yên sẽ tổ chức ngày “mừng thọ” 395
tuổi.
Những người mở
cơi Phú Yên có một giấy khai sinh, thật đáng trân trọng…
Hội thảo khoa học
“Xác định mốc thời gian h́nh thành tỉnh Phú Yên”
nhất trí lấy năm 1611 mở đầu cho niên đại
của tỉnh không có nghĩa là công cuộc khai phá, khắc
phục thiên nhiên, tổ chức xă hội chưa xảy ra
trên vùng đất này trước năm 1611. Bất kỳ
vùng nào trên đất nước Việt Nam hay các nước,
đâu cũng trải qua một quá tŕnh khai phá, tạo lập
bền bỉ, lâu dài, cho đến khi có một danh
xưng.
Đồng bào Phú Yên lập
đền thờ Lương Văn Chánh – người
được xem như Thành Hoàng của cả tỉnh. Mồ
mả, đền thờ ông vẫn c̣n và không ngớt khói
hương, tuy đang bị nắng mưa bào ṃn. Theo Đại
Nam liệt truyện tiền biên, tổ tiên ông quê ở
Bắc Hà, ông làm quan buổi đầu với nhà Lê Trung
Hưng tới chức Thiên Vũ Vệ Đô Chỉ huy sứ,
năm 1558 theo Nguyễn Hoàng vào Nam, năm Mậu Dần
1578 được giao nhiệm vụ chiêu tập lưu
dân khai phá đất hoang vùng Nam Cù Mông đến Bắc
đèo Cả, nhất là dọc theo sông Đà Rằng. Khi chết,
ông được chúa Nguyễn truy tặng tước Phù
Quốc Công. Như vậy, ông Lương Văn Chánh là một
trong những người có công hàng đầu quy dân lập
ấp trên địa bàn mà sau này là tỉnh Phú Yên. Tất
nhiên, trước Lương Văn Chánh hẳn đă có những
hộ dân từ Bắc đèo Cù Mông đến đây sinh sống,
ai là người dẫn đầu và trước Lương
Văn Chánh vùng này đă có bao nhiêu hộ khẩu… không thấy
sử sách chép.
Qua thái
độ của cư dân Phú Yên đối với bậc
tiền hiền Lương Văn Chánh, chúng ta có thể hiểu
được tấm ḷng của dân luôn khắc ghi công
đức khai sơn phá thạch của những bậc tiền
phong.
Như mọi địa
phương Việt Nam khác, Phú Yên theo bước thăng
trầm của đất nước, nhất là những
người di dân Nam sông Gianh thời phân tranh 200 năm Trịnh
– Nguyễn. Phú Yên vốn là một tỉnh nghèo, tỉnh nhỏ,
số phận người dân sở tại nói chung c̣n hẩm
hiu hơn. Nằm trên đường thiên lư Bắc –
Với những đắng
cay buổi mất nước, người Phú Yên gánh chịu
không nhẹ hơn bất kỳ đâu. Cách mạng tháng Tám
và cuộc kháng chiến chống Pháp hiện đại tạo
cho Phú Yên một vị trí khá đặc thù. Cùng với Nam,
Ngăi, B́nh, Phú Yên là vùng tự do suốt 9 năm, dưới
chính thể Việt Nam Dân chủ cộng ḥa, là biên ải
và địa đầu để miền Trung Trung bộ
tiếp sức cho vùng gian khổ cực Nam Trung bộ, bên
kia đèo Đại Lănh, Phú Yên thật ra không yên ổn hoàn
toàn trong thời gian đó, bởi Pháp chiếm Tây Nguyên và
vào cuối cuộc kháng chiến, chiến dịch Atlante
đánh vào Tuy Ḥa, tuy thất bại, song gây không ít khó
khăn cho người dân. Cần nói thêm một điều:
cả 4 tỉnh
Sau Hiệp định
Genève, Ngô Đ́nh Diệm thực hiện một số chính
sách khủng bố qui mô đối với người dân
từng sống ở vùng tự do mà điển h́nh là vụ
thảm sát Ngân Sơn Chí Thạnh vào tháng 7 – 1954. Qua 9 năm
sống dưới chế độ tự do, bị
đàn áp khốc liệt, người Phú Yên đă noi
gương đồng bào Nam bộ tiến hành cuộc
đồng khời Ḥa Thịnh ở Tuy Ḥa – cuộc đồng
khởi đầu tiên của Trung Trung bộ thời chống
Mỹ. Người Phú Yên vẫn c̣n nhớ lực lượng
Đại Hàn khét tiếng tàn ác chà xát Tuy Ḥa nhiều
năm.
Phú Yên trong thời kỳ
này rất nổi tiếng với vụ “tàu không số”
chuyển vũ khí từ Bắc vào
Thật cảm động
khi hôm nay đồng bào đến thăm Phú Yên, tại thị
xă, có thể thắp hương nhà tưởng niệm luật
sư Nguyễn Hữu Thọ hay thăm nơi giam giữ
ông tại Củng Sơn. Nhân dân và Đảng bộ Phú Yên
tự hào đă đùm bọc, che chở và giải thoát cho
vị Chủ tịch Mặt trận Dân tộc giải
phóng miền Nam vào năm 1961, lúc phong trào đang gặp khó
khăn lớn.
Phú Yên đúng là “phú”
hiểu theo nghĩa yêu nước, cách mạng, theo
nghĩa truyền thống không dứt.
Thời mở đất của
vùng đất từ Cù Mông tới Đá Bia trong khoảng
thời gian từ giữa nửa sau thế kỷ 15 đến
giữa thế kỷ 17 không có được tài liệu
thư tịch đương thời. Đến thế kỷ
19 mà Đại
Bởi nguồn tài liệu
thư tịch cổ thiếu, ít nên muốn tái hiện lịch
sử đất Phú Yên thời mở đất cần
tranh thủ nhiều phương pháp tiếp cận khác nữa:
nghiên cứu ngôn ngữ học so sánh, nghiên cứu danh
xưng học (trong đó có địa danh), nghiên cứu
văn học dân gian, sưu tầm các gia phả, tộc phả,
thần phả và điều tra điền dă dân tộc học…
Năm
1471 – Núi Đá Bia trở thành ranh giới Chămpa – Đại
Việt
Đó là năm mà sử
đă ghi:
“Vua Lê Thánh Tông nam chinh,
mở đất đến đây, ở trên núi có sai mài
đá khắc chữ ghi việc chia ranh giới với
Chiêm Thành” (Hoàng Việt nhất thống dư địa
chí).
“Núi Thạch Bi ở phủ
Phú Yên là chỗ tiên triều phân địa giới với
Chiêm Thành” (Lê Quư Đôn, Phủ biên tạp lục) và
nhiều sách khác.
Đó là năm mà đức
vua trẻ, văn vơ song toàn Lê Thánh Tông thân chinh thống lĩnh
26 vạn quân dừng lại ở chân đèo Cả. Không thấy
có chữ ghi trên ḥn đá cao 60m trên đỉnh núi Đá Bia
cao hơn 700m. Hồi thế kỷ 18 Lê Quư Đôn cũng
đă viết: “Lâu ngày dấu chữ đă ṃn mất”.
Nhưng, giá trị thực hiện quy định này của
vua Lê là điều khẳng định. Quân Chiêm vượt
qua giới hạn này là “xâm lấn biên cảnh” và
đều bị trừng trị mà lần sau cùng là vào
năm 1653.
Nhân dân Phú Yên lập đền
thờ vua Lê Thánh Tông ở làng Long Uyên, xă An Dân, huyện Tuy
An là suy tôn, tri ân người có công mở đất. Câu
đối của Bố Chính Đinh Nho Quang treo ở đền
có nghĩa: “Non sông mở đất năm nào, phụ lăo
truyền nhau công Hồng Đức”. Như vậy, vùng
đất từ đèo Cù Mông đến núi Đá Bia sau
năm 1471 là lănh thổ của Đại Việt. Nhưng
chính quyền của nhà Lê cũng chưa thiết lập ở
đây một tổ chức hành chính chặt chẽ như
ở phía Bắc Cù Mông.
Đại Việt Sử
kư toàn thư sau khi ghi việc
vua phong cho Bồ Tŕ Tŕ làm vương nước Chiêm
đă viết: “Vua lại phong vương cho Hoa Anh và
Vị trí của Nam Bàn
đă được Lê Quư Đôn xác định rơ trong Phủ
biên tạp lục. Đó là vùng người Êđê và
người Jarai với thiết chế xă hội do Mtao
Apui (Hỏa Xá) và Mtao Ea (Thủy Xá) đứng đầu.
Đến thời Minh Mạng, Hỏa Xá c̣n cử phái bộ
xuống Củng Sơn rồi ra Huế cống nộp triều
Nguyễn. Người dẫn đường kiêm phiên dịch
là Lê Văn Quyền quê ở Sơn Ḥa.
C̣n có hay không sự tồn
tại của “nước Hoa Anh” và vị trí của
nó ở đâu? Đă có vài giả thiết, trong đó có ư
kiến cho rằng Hoa Anh nằm trên vùng đất “từ
Cù Mông đến Đại Lănh” (Đào Duy Anh và một số tác giả). Nhưng
đến nay chưa có một xác quyết nào có bằng chứng
thuyết phục.
Năm
1578 – Sự nghiệp mở đất Phú Yên thực sự
bắt đầu gắn liền với tên tuổi vị
“Khai quốc công thần” Lương
Văn Chánh.
Sử
chép: “Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa (1558),
sau đó kiêm trấn thủ Quảng Nam (1569). Vị chúa muốn
“Vạn đại dung thân” này đă quan tâm đến việc
khai phá vùng đất mới ở phía Nam. Ông đă chọn
một vị quan có tài – Lương Văn Chánh, giao một
trọng trách – làm Trấn Biên quan, thực hiện một
nhiệm vụ cụ thể – chiêu tập lưu dân đến
Cù Mông, Bà Đài, khai khẩn đất hoang ở Đà Lăng”
(Đại Nam nhất thống chí – tỉnh Phú Yên –
Trang 7).
Năm
đó là 1578, bắt đầu một thời kỳ mở
đất mà Lương Văn Chánh đă có nhiều cống
hiến và đă thành công. Để chiêu dân, lập ấp,
phục hóa, khai hoang, mở mang vùng đất từ Cù Mông
đến Đá Bia, Lương Văn Chánh c̣n dùng nhiều
mưu lược để đất này ổn định
và phát triển. Ông đă đưa 3.000 lưu dân từ
Thanh Nghệ, 1.000 lưu dân từ Thuận Hóa vào Nam Cù Mông
để sinh cư lập nghiệp. Ông cho tổ chức
lưu dân thành từng đơn vị, chia các khu vực,
khai phá làm 3 vùng, có người điều khiển và quản
lư. Không bao lâu, vùng đất này “trên từ nguồn di
dưới đến cửa biển, kết lập gia
cư khai khẩn đất hoang thành thục, nộp thuế
như lệ”.
Lương
Văn Chánh đă làm cho vùng đất ngày nay là tỉnh Phú
Yên thực sự mở mang. Hàng loạt sắc phong đời
các chúa Nguyễn đánh giá cao công trạng của ông khẳng
định thành tích, thăng chức, hậu thưởng.
Và sau khi ông qua đời nhiều vua triều Nguyễn
đă có sắc chỉ phong “Thượng đẳng thần”.
Có lẽ
hạnh phúc lớn nhất của Lương Văn Chánh
là ông đă vui tuổi già và từ giă cơi đời chính
nơi vùng đất ḿnh có công khai phá, ngay ở ngôi làng do
ḿnh lập nên hồi thế kỷ 16 – làng Phụng Tường.
Nhân dân vùng đất tôn vinh ông, tri ân ông, vị “Khai quốc
công thần” thời mở đất của Phú Yên.
Sử
chép: “Năm Tân Hợi (1611), vua sai chủ sự Văn
Phong lấy đất ấy lập thành hai huyện Đồng
Xuân và Tuy Ḥa, đặt phủ Phú Yên ...”
Đó là năm Lương Văn Chánh vừa
mới qua đời ngày 19 tháng 9.
Văn
Phong là một trong các cộng sự của Lương
Văn Chánh. Trần Tài chỉ huy các toán lưu dân khai phá
vùng đất Bà Đài mà nay ở đó c̣n lưu truyền
địa danh “Đồng ông Tài”. C̣n Văn Phong
là chủ sự và khi lập phủ Phú Yên được cử
làm Lưu thủ.
Hồi
bấy giờ các phủ: Thăng Hoa, Quảng Ngăi, Quy
Nhơn và Phú Yên mới lập đều thuộc dinh Quảng
Nam.
18 năm
sau, năm 1629, Văn Phong nghịch phản, chúa Nguyễn
Phúc Nguyên sai phó tướng Nguyễn Vinh đánh dẹp rồi
lập dinh Trấn Biên, sau đổi là dinh Phú Yên.
Toàn bộ
Đàng Trong lúc đó có 7 dinh: Chính dinh (Phú Xuân), Cựu dinh
(Ai Tử – Quảng Trị), Quảng B́nh, Vơ Xá, Bố Chính,
Quảng Nam và Trấn Biên.
Trấn Biên dinh đổi thành Phú Yên dinh có
lẽ vào năm 1653, khi cai
cơ Hùng Lộc vào lập ra phủ Thái Ninh, sau là dinh Thái
Khang. Phú Yên không c̣n làm nhiệm vụ Trấn Biên nữa.
Đất và người Phú Yên qua tiến tŕnh lịch
sử
Trước kia, mảnh đất
giữa Cù Mông và Đèo Cả - Đá Bia là địa bàn của
tộc Cau, tiểu quốc Nam Chăm của Vương quốc
Chămpa.
Đây là một địa phương khá
phát triển, Bia Chợ Dinh I có niên đại khá sớm
(vào thế kỷ IV sau Công Nguyên). Tháp Nhạn được
xây dựng trên 7 thế kỷ rồi. Con sông Đà Rằng
dài đến 290 cây số thời nào cũng là ḍng tải
văn hóa và huyết mạch kinh tế.
Tỉnh
Phú Yên ngày nay là địa bàn tụ cư của nhiều
dân tộc. Cư trú lâu đời ở đây là người
Bana, người Êđê và người Chăm Hroi. Người
Chăm Hroi hiện nay có khoảng 1 vạn người
cư trú tập trung ở 3 huyện miền núi tỉnh Phú
Yên: Đồng Xuân, Sơn Ḥa và Sông Hinh. Ở huyện Vân
Canh tỉnh B́nh Định có hơn 2 ngàn người. Chúng
tôi đă có ư kiến cho rằng người Chăm Hroi là một
trong những thành phần cư dân của thời mở
đất ở Phú Yên. Ḍng họ Tsâu Yoan (“Cháu Kinh”) của
người Chăm Hroi cũng là tài liệu dân tộc học
đáng chú ư.
Ở
Phú Yên c̣n có nguyên một làng người Chăm. Đó là
buôn Ea Ngao, xă Sông Hinh, huyện Sông Hinh. Vào thời điểm
chúng tôi khảo sát dân tộc điền dă họ có 36 hộ
với 199 nhân khẩu. Trong đó có 4 gia đ́nh chồng là
người Êđê, 7 gia đ́nh vợ là người
Êđê, 2 gia đ́nh chồng là người Bana, 2 gia đ́nh
cả vợ chồng là người Êđê, c̣n 21 gia
đ́nh vợ chồng đều là người Chăm.
Các già làng ở buôn Ea Ngao biết rơ tổ tiên họ đă
không qua Dốc Chanh để vào Phan Rang mà tụ lại
sinh sống.
Sau năm 1471, trên vùng đất Cù Mông
đến Đá Bia, người Việt đă bắt
đầu vào sinh sống nhưng chưa đông, c̣n các dân
tộc thiểu số th́ tiếp tục tồn tại. Sử
chép “thuộc Man Lèo” có lẽ là muốn nói đến t́nh
h́nh này.
Từ
năm 1578, với chủ trương rơ của chúa Nguyễn,
tổ chức chặt chẽ và biện pháp tốt, đạt
hiệu quả cao, lưu dân người Việt đă vào
đông. Hoạt động kinh tế sản xuất
đa dạng: khai khẩn đất hoang, phục hóa ruộng
đất cũ, làm các nghề thủ công (dệt chiếu,
dệt thảm cói, tơ trắng, lụa, vỏ gai, thợ
rèn, thợ bạc, thợ mộc, khai thác nghề rừng,
lấy dầu rái, làm nghề phá xanh,...).
Theo
ông Lê Quư Đôn, phủ Phú Yên đă có đến 38 thuộc.
Thuộc có từ 500 người trở lên đặt một
cai thuộc, một kư thuộc. Thuộc 450 người trở
xuống đặt một kư thuộc. Thuộc dưới
100 người chỉ đặt một tướng thần.
Những thôn, phường, nậu, man họp lại thành
thuộc.
Lê
Quư Đôn cũng ghi lại dân số phủ Phú Yên lúc đó
là 14.648 người. Các nguồn ở miền núi, vũng,
gành, cửa biển, các đèo, đ̣... đều phải
nộp thuế.
Như
vậy, bộ mặt vùng đất này trước và sau
1578 khác nhau. Từ năm 1578 thay đổi lớn, phát triển
nhanh.
THỜI
ĐIỂM PHÚ YÊN NẰM TRONG CƯƠNG GIỚI NƯỚC
ĐẠI VIỆT (])
Trong lịch sử h́nh thành và phát triển
vùng đất Phú Yên, có một vấn đề được
đặt ra là vùng đất từ đèo Cù Mông đến
đèo Cả – Đá Bia được sát nhập vào nước
ta vào thời điểm nào? Về vấn đề này
đă từng có ba loại ư kiến khác nhau: Một loại
ư kiến cho rằng thời điểm đó là năm 1471
khi vua Lê Thánh Tông chiếm được thành Chà Bàn. Ư kiến
này có lẽ chủ yếu dựa vào một trong ghi chép
trong sách Đại Nam nhất thống chí, tỉnh Phú Yên: “Đời Lê Thánh Tông, niên hiệu
Hồng Đức thứ 6 (1475), mở đất đến
đây, lấy núi Thạch Bi làm giới hạn”.
Ư kiến thứ hai cho rằng thời
điểm đó là năm 1578 khi chúa Nguyễn Hoàng ủy
nhiệm cho Lương Văn Chánh làm trấn biên quan, chiêu
tập lưu dân đến Cù Mông – Bà Đài khẩn đất
hoang ở Đà Diễn.
Ư kiến
thứ ba cho rằng thời điểm đó là năm Tân
Hợi (1611), là lúc vua sai chủ sự là Văn Phong lấy
đất ấy làm hai huyện Đồng Xuân và Tuy Ḥa,
đất Phú Yên thuộc dinh Quảng Nam và dùng ông làm Lưu
Thủ.
Trong
ba ư kiến này, chúng tôi thiên về ư kiến thứ ba v́ tiêu
chí xác định chủ quyền đối với một
vùng lănh thổ phải là sự xác lập hệ thống
quản lư hành chính đối với vùng đất đó.
C̣n
ư kiến thứ nhất, tôi thấy không đứng vững
v́ mấy lư do sau đây:
1.
Sách Đại Việt sử kư toàn thư không có ghi việc
vua Lê Thánh Tông hành quân vào tận đèo Cả, dựng bia
để phân ranh giới giữa Đại Việt và
Chiêm Thành. Ngược lại, sách ấy lại ghi rơ rằng:
“Bồ Tŕ Tŕ chạy đến
Thiên Lung, chiếm lấy đất ấy, xưng là chúa
Chiêm Thành. Vua lại phong vương cho cả Hoa Anh và Nam
Bàn gồm ba nước để dễ dàng ràng buộc”
(ĐVSKTT, Tập II, Nxb KHXH, 1998, tr.450). Nước Nam Bàn
nói ở đây theo Cương
mục sau là đất của Thủy Xá, Hỏa Xá, nay
là vùng đất thuộc tỉnh Gia Lai – Kon Tum và Dak Lak, c̣n
nước Hoa Anh theo một số ư kiến (của
Đào Duy Anh, Hoàng Văn Lâu, Hà Văn Tấn) có lẽ là
vùng đất thuộc tỉnh Phú Yên và tỉnh Khánh Ḥa ngày
nay.
2.
Câu ghi trong Đại Nam nhất thống chí – tỉnh Phú
Yên: “Lấy núi Thạch Bi làm giới hạn, nhưng từ
núi Cù Mông vào Nam c̣n thuộc Man Lèo”, rất mơ hồ và mâu
thuẫn.
3. Sách Đại Việt sử
kư toàn thư chép: “Ngày mồng
bảy (tháng 3), lấy người Chiêm là Ba Thái là Đồng
tri châu Thái Chiêm, Đa Thủy làm Chiêm tri châu. Vua dụ họ
rằng: “Hai Châu Thái Chiêm và Cổ Lũy trước là
đất của ta, đời gần đây bị mất
về nước Chiêm, nay lấy lại được hết,
đặc cách sai bọn các ngươi trấn giữ. Có
kẻ nào không chịu theo, cho giết trước rồi
tâu sau”.
Ngày 11 lấy Đỗ Tử Quy làm Đồng
tri châu tri Thái Chiêm quân dân sự, Lê Ỷ Đà làm Cổ Lũy
châu tri quân dân sự (ĐVSKTT, tập II, sđd, tr451). Qua
đoạn văn này, ta thấy Lê Thánh Tông không hề cắt
cử quan lại cai trị vùng đất phủ Hoài Nhân,
đừng nói chi đến việc đặt sự cai
trị trên vùng đất từ Cù Mông đến núi Đại
Lănh.
4.
Nếu việc vua Lê Thánh Tông cho dựng bia ở đèo Cả
(núi Đại Lănh) là có thực th́ vùng đất từ Cù
Mông đến đèo Cả vẫn chưa nằm dưới
sự quản lư trực tiếp của Đại Việt.
Nước Đại Việt chưa thiết lập hệ
thống hành chính, và uy quyền của vua Lê Thánh Tông mới
đến phủ Hoài Nhân (tức tỉnh B́nh Định
ngày nay) mà thôi, chứ chưa vào đến núi Thạch Bi. Mặt
khác sự quan tâm khai thác của triều đ́nh Đại
Việt về cơ bản vẫn chỉ đến phủ
Hoài Nhân, chứ chưa vượt qua đèo Cù Mông. Bằng
chứng là vào tháng 6 năm Hồng Đức thứ 2
(1471), vua Lê Thánh Tông đặt đạo Thừa tuyên Quảng
Nam thống lĩnh 3 phủ, 9 huyện: phủ Thăng Hoa
có 3 huyện là Lê Giang, Hà Đông và Hà Giang; phủ Tư Nghĩa
có ba huyện là B́nh Sơn, Mộ Hoa và Nghĩa Giang; phủ
Hoài Nhân có ba huyện là Bồng Sơn, Phù Ly và Tuy Viễn.
Như vậy địa bàn quản lư của Thừa tuyên
Quảng Nam rơ ràng không bao gồm vùng đất từ Cù
Mông vào đèo Cả – núi Thạch Bi.
5.
Đến thời chúa Nguyễn Hoàng, xứ Quảng Nam vẫn
chỉ vào đến phủ Hoài Nhân và biên giới cực
Nam Đại Việt vẫn là đèo Cù Mông qua huyện Tuy
Viễn (nay là Tuy Phước B́nh Định). Cho nên năm
Hoằng Định thứ 12 (1611), Nguyễn Hoàng lấy đất
Phú Yên ngày nay đặt làm một phủ, chia làm hai huyện
Đồng Xuân và Tuy Ḥa và sai Văn Phong làm Lưu Thủ phủ
Phú Yên.
Như
vậy là chỉ đến thời điểm này (1611),
vùng đất ngày nay là Phú Yên mới chính thức sáp nhập
vào bản đồ nước Đại Việt. Và cũng
kể từ đây, chính quyền Đàng Trong mới thực
sự cai quản và khai khẩn vùng đất này với
quy mô lớn. Bằng chứng là trong trận đánh nhau giữa
quân Trịnh và quân Nguyễn ở cửa sông Nhật Lệ
năm 1648, quân Nguyễn thắng to, bắt được
3 vạn tù binh, số tù binh này sau đó được chia
ra an sáp từ miền Thăng, Điện (tức Quảng
Nam) trở vào đến Phú Yên, cấp cho ngưu canh,
điền khí để khai khẩn ruộng hoang.
Về
ư kiến thứ hai cũng có phần gượng ép v́ theo
ĐNLTTB ([1]) năm 1578 Lương
Văn Chánh chỉ đưa lưu dân vào khai khẩn đất
hoang ở Cù Mông, Bà Đài và dọc sông Đà Diễn
(Đà Rằng), chứ chưa thiết lập hệ thống
hành chính cai quản chính thức. Với chức danh Trấn
Biên quan, ông vẫn đặt lư ở huyện Tuy Viễn.
Hơn nữa đây lại là phương sách Nguyễn
Hoàng (và các chúa Nguyễn về sau) thường sử dụng
“lưu dân đến trước, nhà nước đến
sau” mở mang cương vực nước ta. Việc
lưu dân đến ở và tiến hành khai phá đất
đai vùng đất nào chưa thể là căn cứ minh
chứng cho vùng đất đó đă được sáp nhập
vào cương giới nước ta. T́nh h́nh này là
tương đối phổ biến trong các thế kỷ
17, 18 khi cương giới nước ta tiếp tục mở
rộng về phía nam.
Tóm
lại, việc lấy năm 1611 làm thời điểm
sáp nhập vùng đất từ Cù Mông đến núi Đại
Lănh (núi Thạch Bi) (tức vùng đất Phú Yên ngày nay) là
có sự thuyết phục hơn cả v́ nó phù hợp với
nguyên tắc và tiêu chí xác lập chủ quyền trên bất
cứ một vùng đất nào – đó là sau khi đă thiết
lập hệ thống quản lư hành chính chính thức, vững
chắc và lâu dài.
LỊCH SỬ H̀NH THÀNH VÀ QUÁ TR̀NH
BIẾN ĐỔI
1.
THÁNG 6 NĂM 1471: HOÀNG ĐẾ LÊ THÁNH TÔNG LẬP HUYỆN
TUY VIỄN
Tháng
8 năm 1470, t́nh h́nh biên giới phía Nam của Đại Việt
trở nên bất ổn. Tháng 11 năm 1470, Hoàng Đế
Lê Thánh Tông Nam chinh. Tháng 6 năm 1471, Hoàng Đế Lê Thánh
Tông đă cho đặt Thừa Tuyên thứ 13 của Đại
Việt, đó là Thừa Tuyên
Quảng Nam. Các bộ chính sử không cho biết thêm
điều ǵ cụ thể hơn nhưng một số
thư tịch cũ của Nhà Lê ([2]) th́ ghi chép rơ ràng rằng Thừa
Tuyên Quảng Nam quản lĩnh ba phủ và chín huyện:
- Phủ Thăng Hoa lănh 3
huyện là Lê Giang, Hà Đông và Hy Giang
- Phủ Tư Nghĩa lănh
3 huyện là B́nh Sơn, Mộ Hoa và Nghĩa Giang
- Phủ Hoài Nhân lănh 3 huyện
là Bồng Sơn, Phù Ly và Tuy Viễn.
Hai
huyện Bồng Sơn và Phù Ly của phủ Hoài Nhân nay
đại để tương ứng với toàn bộ
tỉnh B́nh Định c̣n huyện Tuy Viễn th́ đại
để tương ứng với tỉnh Phú Yên ngày nay.
Lúc bấy giờ, nếu hai huyện Bồng Sơn và Phù
Ly được quan lại Đại Việt quản lư
chặt chẽ th́ ngược lại, huyện Tuy Viễn
chỉ trực thuộc phủ Hoài Nhân trên danh nghĩa chứ
trong thực tế th́ mọi việc trấn trị ở
đây vẫn do người Chăm đảm nhận. Nói
khác hơn, trên danh nghĩa th́
vùng đất nay thuộc tỉnh Phú Yên đă trở thành
một bộ phận lănh thổ của Đại Việt
kể từ năm Canh Dần (1471). Bấy giờ, đất
này được tổ chức thành một huyện với
tên gọi đầu tiên là huyện Tuy Viễn.
2. NĂM 1611: CHÚA NGUYỄN HOÀNG ĐẶT
RA PHỦ PHÚ YÊN TRỰC THUỘC DINH TRẤN BIÊN
Năm
1558, Nguyễn Hoàng được trao chức Trấn Thủ
xứ Thuận Hoá và đến năm 1570, ông được
kiêm quản cả chức Trấn Thủ xứ Quảng
Nam. Bởi lẽ này nên từ năm 1570 trở đi, trên
danh nghĩa th́ huyện Tuy Viễn thuộc quyền cai quản
của Nguyễn Hoàng. Cơ đồ riêng của họ
Nguyễn h́nh thành kể từ đó.
Theo
lệ cũ, huyện Tuy Viễn chỉ bị ràng buộc
lỏng lẻo. “Bấy giờ
chúa liền sai viên Chủ Sự là Văn Phong (chưa rơ họ)
lấy đất, đặt thành một phủ mới,
cho lănh hai huyện là Đồng Xuân và Tuy Hoà, sai Văn Phong
giữ chức Lưu Thủ đất này”([3]). Phủ mới được
lập này có tên là Phú Yên. Phủ Phú Yên trực thuộc dinh
Trấn Biên, sau dinh Trấn Biên được đổi gọi
là dinh Phú Yên.
Lúc
này, theo quy chế hành chính chung
của xứ Đàng Trong th́ dưới huyện là tổng,
dưới tổng là xă và dưới xă là thôn. Tuy nhiên, gắn
liền với quá tŕnh di dân lập ấp c̣n có quá tŕnh h́nh
thành các thuộc. Đúng ra, thuộc là những đơn vị
hành chính dưới huyện nhưng chỉ bị ràng buộc
lỏng lẻo chứ không chặt chẽ như đối
với các tổng, xă và thôn. Thường th́ thuộc là những
đơn vị hành chánh của đồng bào các dân tộc
ít người hoặc của những vùng xa xôi hẻo
lánh. Để được
hưởng sự ràng buộc lỏng lẻo, dân mới
di cư đến lập ấp cũng nhất loạt lập
ra các thuộc. Theo thống kê của Bảng Nhăn Lê Quư
Đôn th́ vào năm 1726, phủ Phú Yên có 38 thuộc ([4]). Con số này lớn
hơn hẳn các phủ khác ([5]). Về dân số, phủ
Phú Yên có tất cả 4.324 dân đinh([6]). Dân tuy không đông nhưng
các khoản thuế và nguồn lợi thu được ở
Phú Yên lại rất lớn, thậm chí c̣n lớn hơn
các phủ lân cận([7]).
3. – NĂM 1807, GIA LONG NÂNG PHỦ PHÚ YÊN THÀNH
DINH PHÚ YÊN VÀ SAU ĐÓ ĐỔI LÀM TRẤN PHÚ YÊN
- NĂM 1826. MINH MẠNG TÁI LẬP PHỦ
PHÚ YÊN, ĐẾN NĂM 1831 ĐỔI LÀ PHỦ TUY YÊN.
NĂM 1832, MINH MẠNG LẬP TỈNH PHÚ YÊN.
- NĂM 1853, TỰ ĐỨC BỎ TỈNH
PHÚ YÊN ĐỂ LẬP ĐẠO PHÚ YÊN…
Vào
tháng giêng năm Gia Long thứ sáu (tức là năm Đinh
Măo – 1807), dinh Phú Yên được triều đ́nh nhà Nguyễn
cho đổi gọi là trấn Phú Yên. Lúc này, việc đổi
các dinh thành đơn vị trấn là chủ trương
chung, được tiến hành trên phạm vi cả nước
chứ không phải riêng ǵ ở Phú Yên. Gắn liền với
sự kiện quan trọng này, vị trí của Phú Yên cũng
được nâng cao hơn hẳn trước đó.
Nhưng rồi đến năm 1826, Minh Mạng lại
cho đổi gọi là trấn Phú Yên là phủ Phú Yên
như cũ. Và tất nhiên, một khi phải trở lại
với đơn vị cấp phủ th́ vị trí của
Phú Yên có phần bị thu hẹp hơn trước. Thời
gian sử dụng của địa danh hành chánh phủ Phú
Yên bị gián đoạn mất một năm, đó là
năm 1831. Vào năm này, Minh Mạng cho đổi phủ
Phú Yên thành phủ Tuy Yên. Một năm sau, năm Minh Mạng
thứ 13 (Nhâm Th́n – 1832), lần
đầu tiên đơn vị hành chánh cấp tỉnh
được thành lập ở nước ta, phủ Tuy
Yên được nâng lên thành một tỉnh([8]). Như vậy, sau nhiều lần biến đổi,
địa danh Phú Yên với ư nghĩa là tên gọi chính thức
của một tỉnh bắt đầu có kể từ
năm Minh Mạng thứ 13 (năm Nhâm Th́n – 1832).
Năm
Tự Đức thứ sáu (tức là năm Quư Sửu –
1853), triều đ́nh nhà Nguyễn đă quyết định
bỏ đơn vị tỉnh Phú Yên và lập ra đạo
Phú Yên. Đạo Phú Yên quản lănh hai huyện là huyện Đồng Xuân và huyện Tuy Ḥa. Để trông
coi đạo Phú Yên, triều Nguyễn cho đặt chức
Quản Đạo. Năm Tự Đức thứ 12 (tức
là năm Kỷ Mùi – 1859), triều Nguyễn c̣n đặt
thêm chức Tuyên Phủ Sứ nhưng chỉ 4 năm sau,
năm Tự Đức thứ 16 (tức là năm Quư Hợi
– 1863), triều Nguyễn lại cho băi bỏ chức này và
thay vào đó, kể từ năm 1864 th́ đặt thêm chức
Phó Quản Đạo. Sở trị của đạo Phú
Yên được đặt trong thành đạo Phú Yên.
Thư tịch cổ cho biết rằng, thành đạo
Phú Yên thiết lập tại thôn Long An, huyện Đồng
Xuân. Thành vốn đă được đắp từ
năm Minh Mạng thứ 19 (tức là vào năm Mậu Tuất
– 1838). Bấy giờ, huyện
Đồng Xuân quản lănh 3 tổng với 109 xă, thôn,
phường và giáp c̣n huyện
Tuy Hoà quản lănh 4 tổng với 95 xă, thôn, phường
và giáp.
Sau
năm 1853, đơn vị hành chánh Phú Yên c̣n trải khá nhiều
lần thay đổi nữa (nhất là vào thời cận
và hiện đại), tuy nhiên, xét về quá tŕnh h́nh thành và
lịch sử biến đổi của địa danh Phú
Yên th́ đại để là bao gồm mấy nét lớn
như đă nêu trên.
Tóm lại, trên danh nghĩa th́ đất
Phú Yên đă trở thành một bộ phận lănh thổ của
nước Đại Việt kể từ năm 1471 với
tên gọi đầu tiên do Hoàng Đế Lê Thánh Tông đặt
ra là huyện Tuy Viễn. Nhưng, trong khoảng thời
gian từ năm 1471 đến năm 1611, huyện Tuy Viễn
chỉ mới được quản lư theo quy chế “ràng
buộc lỏng lẻo”. Bấy giờ, xu hướng
chung là cơ quan quyền lực của huyện Tuy Viễn
ngày càng t́m cách tách dần ra khỏi sức cương toả
của hệ thống chính quyền. Từ năm Tân Hợi
(1611), sau thắng lợi của cuộc tấn công quân sự
và cuộc chia đặt đơn vị địa
phương mới do Nguyễn Hoàng thực hiện, địa
danh hành chánh Phú Yên đă được khai sinh và như vậy,
địa danh Phú Yên đă có cả một lịch sử
lâu dài đến 392 năm (1611 – 2003), nhưng, nếu chỉ
tỉnh riêng thời gian tồn tại với ư nghĩa là
tên gọi chính thức của một tỉnh th́ tính đến
nay, tỉnh Phú Yên cũng đă tṛn 171 tuổi (1832 – 2003).
Nhân dân Phú Yên hoàn toàn có quyền tự hào rằng, Phú Yên là một
trong số 29 tỉnh được thành lập sớm nhất
ở Việt Nam.
TP HCM. 2003-IV-24
N.K.T
VÀI NÉT VỀ
NHÂN VẬT
LƯƠNG VĂN CHÁNH
Một
trong những nhân vật lớn nhất của Phú Yên thời
trung đại là Lương Văn Chánh và nhân dân Phú Yên nói
riêng, nhân dân cả nước nói chung hoàn toàn có quyền tự
hào chính đáng về nhân vật lịch sử này. Tuy nhiên,
lư lịch cuộc đời và tầm vóc sự nghiệp
của Lương Văn Chánh chừng như vẫn
chưa được nghiên cứu một cách đầy
đủ. Với báo cáo nhỏ này, chúng tôi chỉ xin cung cấp
những ghi chép của thư tịch cổ về
Lương Văn Chánh và bước đầu nêu lên vài nhận
định nhỏ về ông.
Trang
trọng giới thiệu sớm nhất và nhiều nhất
về nhân vật lịch sử Lương Văn Chánh có lẽ
là bộ ĐẠI NAM LIỆT TRUYỆN của Quốc Sử
Quán Triều Nguyễn. Bộ sách này gồm tất cả
87 quyển, được chia làm hai phần chính là Tiền
biên và Chính biên. Nhân vật Lương Văn Chánh được
giới thiệu ở quyển 3 của phần Tiền
biên. Toàn văn ghi chép của ĐẠI NAM LIỆT TRUYỆN
(Tiền biên)([9]) về Lương Văn
Chánh như sau:
“Lương Văn Chánh người
huyện Tuy Hoà, tỉnh Phú Yên, tổ tiên vốn là người
Bắc Hà([10]). Lúc đầu,
Lương Văn Chánh làm quan cho nhà Lê, từng được
thăng tới chức Đô
chỉ huy sứ của vệ Thiên Vũ. Đầu
năm Mậu Ngọ([11]), (Lương Văn
Chánh) theo Thái Tổ ([12]) vào Nam. Khoảng
năm Mậu Dần([13]), (Lương Văn)
Chánh đem quân đến sông Đà Diễn([14]), nhờ có quân công,
(Lương Văn Chánh) được gia thăng đến
chức Đặc Tiến Phụ
Quốc Thượng Tướng quân, tước Phù Nghĩa Hầu, sau lại
thắng làm Trấn Thủ Trấn
Biên([15]). Tại huyện Tuy Viễn (Lương
Văn) Chánh chiêu tập dân phiêu tán đến khai khẩn ruộng
đất ở khu vực từ Cù Mông và Bà Đài (tức
Xuân Đài). Ông lại c̣n đứng ra mộ dân đến
khai khẩn đất hoang ở vùng thượng và hạ
lưu sông Đà Diễn, chia lập thôn ấp, khiến cho
dân cư nơi đây ngày càng đông đúc.
Sau khi mất, Lương
Văn Chánh được truy tặng chức Tiền trấn Dinh Tham Tướng,
tước Phù Quận công,
và được phong làm Bảo
Quốc Chi Thần. (Hồn thiêng của ông) tỏ ra rất
linh ứng, v́ thế, dân làng quê của ông đă lập
đền thờ. Vào năm Canh Thân đời Thế Tông
Hoàng Đế năm thứ hai ([16]), Lương Văn
Chánh được truy thăng làm Bảo Quốc hộ dân Hựu Thuận Chi Thần.
Năm Giáp Tư đời Thế Tông Hoàng Đế năm
thứ sáu([17]), ông lại được
truy tăng thêm là Bảo Quốc
Hộ Dân Hựu Thuận Tinh Tiết Chi Thần. Năm
Minh Mạng thứ ba([18]), triều đ́nh ban
sắc truy phong cho ông làm Tráng
Du Cung Vũ Linh ứng Thượng Đẳng Thần. Con
cháu Lương Văn Chánh có hai người được
phong tới tước Hầu.
(Lương Văn) Chánh là
bậc công thần hồi quốc sơ ([19]), có công khai thác đất
đai, mở rộng biên giới, huân nghiệp thật rơ
rệt nhưng v́ sự tích sưu tập muộn cho nên
sách THỰC LỤC([20]) đă bỏ sót tên
ông”.
Thư
tịch cổ quan trọng thứ hai có chép về
Lương Văn Chánh cũng là do Quốc Sử Quán Triều
Nguyễn biên soạn: bộ ĐẠI NAM NHẤT THỐNG
CHÍ. Bộ sách lớn này đă tuần tự giới thiệu
tóm lươc về địa chí và văn hoá của từng
tỉnh hoặc tương đương([21]). Hiện tại, ĐẠI
NAM NHẤT THỐNG CHÍ có đến mấy bản chữ
Hán khác nhau và trọn bộ sách lớn này cũng đă may mắn
được các dịch giả uyên thâm Hán học giới
thiệu với ít nhất là hai bản Việt văn([22]). Mỗi bản dịch Việt
văn đều có những ưu điểm và nhược
điểm riêng. Dưới đây là phần ghi chép về
Lương Văn Chánh trong bộ ĐẠI NAM NHẤT THỐNG
CHÍ (Phú Yên đạo)( [23]):
“Lương Văn Chánh
người huyện Tuy Hoà. Đầu thời bản triều[24] (LươngVăn Chánh) làm Chỉ Huy Sứ,
(Lương Văn Chánh) được thăng làm Phụ
Quốc Thượng Tướng Quân, sau đó được
bổ làm Tham Tướng dinh Trấn Biên[25]. Ông là người có công chiêu mộ dân
phiêu tán, tổ chức khẩn hoang và lập ấp. Khi mất,
(Lương Văn Chánh) được truy tặng tước
Quận Công và phong làm Phúc Thần”.
Rất
tiếc là những tài liệu gốc về nhân vật
Lương Văn Chánh c̣n lại không nhiều. Tuy nhiên, từ
hai đoạn ghi chép ngắn ngủi trên đây của hai
tác phẩm lớn là ĐẠI NAM LIỆT TRUYỆN và
ĐẠI NAM NHẤT THỐNG CHÍ, chúng tôi cũng xin
được bước đầu mạo muội nêu
lên vài nhận xét nhỏ của ḿnh như sau:
1. Cả
hai tài liệu rất quan trọng nói trên đều công khai
xác nhận rằng Lương Văn Chánh là người
huyện Tuy Hoà. Riêng bộ ĐẠI NAM LIỆT TRUYỆN
th́ vừa nói rơ rằng tổ tiên của Lương
Văn Chánh vốn là người Bắc Hà để theo
Nguyễn Hoàng vào Nam từ năm 1558. Cách ghi chép này có phần khác với
cách ghi chép phổ biến của sử sách xưa ở
nước ta. Thông thường th́ nguyên quán được
hiểu là nơi sinh sống từ rất nhiều đời
của tổ tiên chứ không phải là nơi mới định
cư của bản thân ḿnh. Ngay cả hai bộ sách lớn
nói trên cũng đă ghi chép theo thông lệ này. Ví dụ: Tả
Quân Lê Văn Duyệt sinh ra và lớn lên ở Định
Tường, nay thuộc tỉnh Tiền Giang nhưng lại
chép nguyên quán là huyện Chương Nghĩa (nay thuộc tỉnh
Quảng Ngăi); Tiền Quân Nguyễn Văn Thành sinh ra và lớn
lên ở đất Gia Định nhưng lại chép nguyên
quán là huyện Quảng Điền (nay thuộc tỉnh Thừa
Thiên - Huế); Và, hàng trăm nhân vật khác tuy sinh ra và lớn
lên ở xứ Đàng Trong nhưng đều được
chép nguyên quán là nơi xứ Đàng Ngoài. Rất có thể
là các sử gia trong Quốc Sử Quán Triều Nguyễn
đă có chút bất cẩn mà cũng rất có thể là
trường hợp Lương Văn Chánh có khía cạnh
đặc biệt nào đó chăng. Chúng tôi nêu vấn
đề nhỏ này ra như một chút tồn nghi để
mong được các bậc đồng nghiệp gần
xa lư giải giúp.
2. Theo chúng tôi, Lương Văn Chánh có hai
cống hiến lớn, rất xứng đáng được
sử sách trân trọng ghi nhận. Một là công lao dẹp
loạn và góp phần khẳng định lănh thổ. Khoan
hăy nói đến nhu cầu tăng cường tiềm lực
để có thể đủ sức ḱnh địch với
họ Trịnh ở Đàng Ngoài, khoan hăy nói đến
chính sách bành tướng là một thuộc tính tất yếu
của các chính quyền thời cổ và trung đại, việc
kiên quyết dẹp loạn để giữ yên
cương thổ phía Nam là một nhiệm vụ lớn
của các chúa Nguyễn ở Đàng Trong lúc bấy giờ.
Trên danh nghĩa, đất huyện Tuy Viễn (tức Phú
Yên sau này) đă là lănh thổ của Đại Việt từ
năm 1471. Tuy Viễn được hưởng quy chế
ràng buộc lỏng lẻo nhưng trên danh nghĩa chính thống
th́ vẫn là đất của Đại Việt. Từ
năm 1570, khi Nguyễn Hoàng được kiêm quản cả
xứ Quảng Nam th́ Tuy Viễn tất nhiên là thuộc quyền
quản lư của Nguyễn Hoàng. Dẹp loạn ở Tuy Viễn
là trách nhiệm của Nguyễn Hoàng.
Hai là Lương Văn
Chánh đă có công tổ chức chiêu mộ nhân dân đi khẩn
hoang lập ấp. Đây là một trong những việc
làm có ư nghĩa rất tích cực và tiến bộ, vừa
thiết thực góp phần làm cho quốc thái dân an, vừa nhanh chóng khẳng định lănh thổ mới. Dấu ấn
của quá tŕnh Lương Văn Chánh tổ chức khẩn
hoang lập ấp đă được thư tịch cổ
trân trọng ghi chép lại. Chúng tôi hy vọng là chẳng bao
lâu nữa, chúng ta sẽ có hẳn một công tŕnh giới
thiệu thật đầy đủ và sinh động về
công lao này của Lương Văn Chánh. Từ đây, nhiều
vùng đất hoang vu của Tuy Viễn đă dần dần
trở thành xóm làng trù mật, thành ruộng đồng
tươi tốt. Từ đây, những kinh nghiệm tổ
chức khẩn hoang của Lương Văn Chánh
được các thế hệ sau nghiêm cẩn học tập
và kế thừa để áp dụng vào quá t́nh tổ chức
khai khẩn đất hoang ở những vùng lănh thổ mới,
rộng lớn hơn, ph́ nhiêu hơn. Dân sở tại kính
cẩn lập đền thờ ông trước hết cũng
v́ ơn huệ lớn lao này.
Cũng giống như hàng loạt những
nhân vật khác của thời cổ và trung đại, lư lịch
cuộc đời của Lương Văn Chánh hiện vẫn
c̣n nhiều chỗ chưa rơ ràng, đại để
như tiểu truyện về cha sinh và mẹ đẻ, về
năm sinh và năm mất, về các thế hệ hậu
duệ của ông… nhưng, dù chỉ mới điểm qua
hai cống hiến to lớn nói trên, sự nghiệp của
Lương Văn Chánh thiết tưởng cũng đă
khá rơ. Với muôn dân trên khắp non nước thân yêu này,
tên ông c̣n măi tiếng thơm.
TS. Trần Viết Ngạc
Trong khi đi t́m dấu vết người
có công khai phá đất Phú Yên, chúng tôi đă được
đọc nhiều công văn, sắc và sắc phong thần
liên quan đến Phù Nghĩa hầu Lương Văn
Chánh có niên đại từ 1596 đến đầu thế
kỷ XX, triều Duy Tân. Công văn mà chúng tôi giới thiệu
sau đây đă có 400 tuổi song nhờ giữ ǵn cẩn
thận, giấy, màu mực, màu son vẫn c̣n nguyên vẹn.
Nội dung công văn là một lệnh do Tổng trấn
Thuận Quảng Nguyễn Hoàng giao nhiệm vụ cho Phù
Nghĩa hầu Lương Văn Chánh đem lưu dân từ
huyện Tuy Viễn vào khai phá vùng đất từ đèo
Cù Mông đến Đèo Cả, từ thượng nguồn
đến hải khẩu, thiết lập làng mạc, lập
điền bộ để thu thuế.
Nguyên
văn: “Thị
Phù Nghĩa hầu Lương Văn Chánh năng ṭng quân nhật
cửu hữu công, quyền Tuy Viễn huyện, An Biên trấn,
văn:
Liệu
suất Bà Thê xă trục hạng nhân số tính khách hộ
các phương ṭng hành ứng vụ. Nhưng suất thủ
khách hộ nhân dân tự Cù Mông, Bà Đài, Bà Diễn, Đà
Niễu đẳng xứ, thượng chí nguồn di, hạ
chí hải khẩu, kết lập gia cư địa phận,
khai canh hoang nhàn điền thổ để thu nạp thuế
như lệ.
Nhược chủ sự nhiễu
dân, khám đắc xử tội.
Tư thị.
Quang Hưng, nhị thập niên,
nhị nguyệt sơ, lục nhật
Tổng Trấn tướng quân
chi ấn”
Bản
dịch: “Dạy Phù Nghĩa hầu Lương Văn Chánh đă
giữ việc quân lâu ngày có công trạng, quyền coi huyện
Tuy Viễn, Trấn An Biên rằng:
Hăy
liệu đem số dân xă Bà Thê đă trục vào hạng
dân và các thôn phường khách hộ theo hầu công việc,
lấy riêng số dân khách hộ đến các xứ Cù
Mông, Bà Đài ([26]), Bà Diễn ([27]), Đà Niễu([28]), trên từ nguồn thượng
dưới đến cửa biển, kết lập gia
cư địa phận, khai khẩn ruộng đất
hoang cho tới khi thành thục sẽ nạp thuế như
lệ thường. Nhược bằng v́ việc mà nhiễu
dân, điều tra ra sẽ xử tội.
Nay
dạy.
Năm
Quang Hưng thứ hai mươi, tháng hai, ngày mồng sáu.
Ẩn
Tổng
trấn Tướng Quân”
Văn
bản trên cho chúng ta một số thông tin:
1.
Năm 1597, Tổng trấn Thuận Quảng Nguyễn Hoàng
đang ở Thăng Long nhưng vẫn điều hành
công việc ở Thuận Quảng và rất quan tâm đến
việc phát triển vùng trấn nhậm về phía Nam. Và ba
năm sau, nhân vụ Bùi Văn Khuê, Phan Ngạn nổi dậy
ở cửa Đại An, đă thoát về Thuận Hoá với
tất cả bộ tướng và binh thuyền (1600).
2.
Văn hoá nói trên là một chứng cứ xác thực vô cùng
quư hiếm cho chúng ta biết về một thời điểm
quan trọng trong việc khai phá phần lănh thổ phía Nam của
xứ Đàng Trong. Nó cũng giúp chúng ta hiểu rằng từ
sự thiết lập biên giới do chinh chiến cho đến
khi vùng đất mới được khai phá, thiết lập
làng mạc có một khoảng cách thời gian khá dài. Ở
Phú Yên, khoảng cách đó là 126 năm kể từ cuộc
chinh phạt phía Nam của Lê Thanh Tông năm 1471.
Chỉ
dẫn này rất quư giá đối với những người
nghiên cứu và biên soạn địa chí các tỉnh Nam Trung
bộ.
3.
Chính sách thu phục nhân tâm, chiêu hiền đăi sĩ của
Đoan quận công Nguyễn Hoàng được thực hiện
từ buổi đầu dừng chân ở Cồn Cỏ
xă Ái Tử (1558) và vẫn tiếp tục thực hiện
trong những năm cuối đời. Một trong những
biện pháp đó là trừng trị các quan có hành vi nhũng
nhiễu dân chúng.
4. Lương Văn Chánh không được
nói đến trong Đại
Nam Thực lục tiền biên nhưng được
chép tiểu sử trong Đại
Nam Liệt Truyện tiền biên. Lương đă theo
Nguyễn Hoàng vào Thuận Hoá từ năm 1558, và đă có
công khai phá toàn bộ đất đai thuộc tỉnh Phú
Yên bây giờ. Nhiều tác giả đă nhầm lẫn khi
cho rằng Lương Văn Chánh được Trịnh
Tùng phái vào Nam để theo dơi Nguyễn Hoàng.
Các tư
liệu điền dă khác như gia phổ, tộc phổ,
văn tế, di tích về Lương Văn Chánh đều
tỏ ra phù hợp với bản văn nói trên và nhờ bản
văn nói trên mà tính chất xác thực của các tư liệu
được kiểm chứng.
CÁC CHUYỀN ĐỀ VỀ
MỐC PHÚ YÊN 395 NĂM H̀NH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
Ngày 29- 4-
2003, tỉnh Phú Yên đă tổ chức cuộc hội thảo”Xác
định mốc thời gian thành lập Phú Yên”để
các nhà nghiên cứu tham gia trao đổi, tham luận, tŕnh
bày các kiến giải, luận cứ khoa học về mốc
thời gian h́nh thành Phú Yên. Trên cơ sở các kiến giải
và luận cứ khoa học được nhiều nhà
nghiên cứu tham gia hội thảo tán thành, lănh đạo tỉnh
Phú Yên đă chọn năm 1611 (Tân Hợi) làm mốc để
tổ chức các lần kỷ niệm về năm thành lập
Phú Yên.
Có một
số mốc thời gian có sự kiện lịch sử
liên quan đến việc mở cơi và h́nh thành vùng đất
mới của người Việt, h́nh thành địa danh
hành chính đầu tiên có tên Phú Yên, đó là vào các năm:
1471 (Tân Măo), 1578 (Mậu Dần), 1602 (Nhâm Dần), 1611 (Tân Hợi),
1629 (Kỷ Tị), 1832 (Nhâm Th́n),…
Sự kiện lịch sử năm
Tân Măo (1471):
-
Theo sách Đại Việt sử
kư toàn thư: vào năm Tân Măo, Hồng Đức thứ
2, Thánh Tông ”thân đem đại
quân đánh thành Thị Nại…Ngày 1 tháng 3, hạ thành Chà
Bàn…vua ra lệnh những kho tàng của cải đều
phải niêm phong canh giữ không được đốt
cháy”. “Tướng là Bồ
Tŕ Tŕ xưng làm Vua Chiêm Thành, sai sứ đến tiến cống.
Vua phong cho làm Vương. Vua lại phong Vương cho Hoa
Anh và Nam Bàn (gồm Thuỷ Xá, Hoả Xá), làm 3 nước,
để ràng buộc”. Sau khi trở về Thăng Long,
”tháng 6, đặt làm Thừa tuyên Quảng Nam và vệ
Thăng hoa…Ở Quảng Nam đặt 3 Ty: Đô Ty, Thừa
Ty và Hiến Ty”.
- Theo sách Lịch
sử Vương quốc Champa (Lương Ninh, NXB
ĐHQG Hà Nội, 2004): Vua Lê thân chinh, theo như tuyên bố,
cũng v́ một quan niệm là ”Đại
Chiêm và Cổ Luỹ trước là đất của ta”. Vua đă lấy cả một vùng
Vijaya nay là B́nh Định liền một dải với Cổ
Luỹ để có địa giới tự nhiên hiểm
trở ở phía Nam là đèo Cù Mông, lập nên đạo Quảng
Nam. Trong cuộc hành quân này, quân Đại Việt c̣n vượt
qua đèo Cù Mông, tiến tới núi Đá Bia (đèo Cả,
huyện Đông Hoà, tỉnh Phú Yên ngày nay). Với ư định
tạo nên sự yên ổn lâu dài ở phía Nam, vua Lê cắt
phần đất ven biển từ đèo Cù Mông tới
đèo Cả lập nên một nước riêng gọi là
nước Hoa Anh; cử một hào trưởng địa
phương làm Hoa Anh Vương. Lại lấy phần
thượng nguyên ở phía Tây Hoa Anh - vùng Cheo Reo để lập nước
Nam Bàn; Nam Bàn là nơi sinh sống của 2 bộ lạc ở
vùng thượng lưu sông Đà Rằng.
Sự kiện lịch sử năm Mậu
Dần (1578):
Đầu thế kỷ XVI, nhà Lê suy yếu,
tiếp đến việc Mạc Đăng Dung cướp
ngôi (1527), rồi đến việc họ Trịnh làm Chúa
nắm quyền và việc Nguyễn Hoàng xin vào trấn thủ
phương Nam để tránh tị hiềm. Lúc đầu
Nguyễn Hoàng được nhận trấn thủ Thuận
Hoá (Quảng B́nh, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế ngày
nay), tiếp đó lại xin được giao thêm quyền
trấn thủ Quảng Nam (từ Quảng Nam đến
B́nh Định ngày nay). Ngay khi vừa nhận thêm quyền
trấn thủ Quảng Nam, Nguyễn Hoàng đă cử
Lương Văn Chánh làm Tri huyện Tuy Viễn và giao nhiệm
vụ giữ yên phía Nam. Năm 1578, Lương Văn Chánh
đem quân vây và hạ thành An Nghiệp. Sau đó
Lương Văn Chánh chiêu tập dân Chiêm khai khẩn đất
hoang ở Cù Mông, Bà Đài và cho dân di cư đến
đây; lại mộ dân khai hoang ở trên dưới triền
sông Đà Diễn, chia lập thôn, ấp, dân cư ngày càng
đông đúc. Nhưng thời điểm khai hoang lập ấp
của Lương Văn Chánh ở Phú Yên c̣n có những nguồn
tư liệu viết khác. Theo ghi chép của sách Liệt truyện tiền biên
và các bản thần sắc c̣n lưu giữ tại làng
Phước Khánh, xă Hoà Trị, huyện Phú Hoà th́ vào ngày mùng
6 tháng 2, năm Quang Thuận thứ 20 (1597), Tổng trấn
Thuận Quảng là Nguyễn Hoàng đă lệnh cho
Lương Văn Chánh được quyền coi sóc trấn
An Biên, huyện Tuy Viễn, đốc thúc số lưu dân ở
xă Bà Thê và các phường thôn khách hộ theo làm nhiệm vụ,
dẫn đem theo những hộ dân mới tới đến
các xứ Cù Mông, Bà Đài, Đà Diễn, Đà Nông, trên từ
vùng sơn cước, dưới đến các cửa biển,
lập nhà cửa, khai phá đất hoang thành ruộng
vườn. Theo lệnh, Lương Văn Chánh chiêu tập
lưu dân từ miền Thanh, Nghệ và Thuận Quảng
vào đất Trấn Biên tạo dựng cơ nghiệp.
Sự kiện lịch sử năm
Nhâm Ngọ (1602):
Theo
sách Khâm định Việt sử
thông giám cương mục, chính biên quyển 22 (do Quốc
sử quán triều Nguyễn biên soạn): Lê Thánh Tôn, lấy
đất ấy đặt làm Thừa tuyên Quảng Nam,
lănh 3 phủ 9 huyện; Thái tổ Gia dụ Hoàng đế
(tức Nguyễn Hoàng) năm thứ 45 (tính ra công lịch
là năm 1602) đổi đặt làm dinh Quảng Nam,…lại
lấy đất ở phía Nam đèo Cù Mông đặt thêm
2 huyện Đồng Xuân và Tuy Hoà gồm làm phủ Phú Yên,
cũng lệ vào Quảng Nam.
Theo sách Le
royaume de Champa (Vương quốc Chăm pa) của
George Maspe’ro (Paris, 1928) và sách Đất
nước Việt Nam qua các đời của học
giả Đào Duy Anh (Thuận Hoá, 1997) cũng theo như sách Khâm định Việt sử
thông giám cương mục: ”Thái tổ Gia dụ Hoàng đế
năm thứ 45 (1602) đổi đặt làm dinh Quảng
Nam,…lại lấy đất ở phía Nam đèo Cù Mông
đặt thêm 2 huyện Đồng Xuân và Tuy Hoà gồm làm
phủ Phú Yên, cũng lệ vào Quảng Nam.”.
Sự kiện lịch sử năm
Tân Hợi (1611):
Năm 1611, Nguyễn Hoàng sai Văn Phong làm
tướng, đem quân đến đèo Cả. Nguyễn Hoàng lấy đất
lập ra một phủ mới là phủ Phú Yên thuộc
dinh Quảng Nam, gồm hai huyện Đồng Xuân và Tuy
Hoà, cử Văn Phong làm Lưu Thủ (dinh Quảng
Nam trước coi 3 phủ Thăng Hoa, Quảng Ngăi, Qui
Nhơn, nay coi thêm phủ Phú Yên). Đây là các đơn vị hành chính đầu tiên
của chính quyền Đàng Trong thiết lập trên vùng
đất từ Cù Mông đến đèo Cả với
địa danh hành chính mang tiếng Việt là Phú Yên, Đồng
Xuân, Tuy Hoà.
Với
việc lập phủ Phú Yên, chúa Nguyễn muốn xác lập
hẳn quyền cai trị của ḿnh trên một miền
đất đă có sự góp sức khai khẩn của nông
dân Việt trong nhiều năm trước đó, muốn
chấm dứt sự tranh chấp trên một vùng đệm
để có thể yên tâm đối phó với cuộc chiến
tranh chinh phạt của chúa Trịnh, một thử thách
quyết liệt đối với chúa Nguyễn ở
Đàng Trong.
Sự
kiện lịch sử năm Kỷ Tỵ (1629):
Năm
1629, Văn Phong làm nghịch, chúa Nguyễn Phúc Nguyên cử
Phó tướng Nguyễn Phúc Vinh vào đánh dẹp và mở
rộng đất đến B́nh Khang (Khánh Hoà ngày nay). Phúc
Vinh được chúa Nguyễn giao phó việc tổ chức
đồn luỹ và dinh Trấn Biên, lại theo những chỗ
bờ biển đặt làm 38 thuộc. Thuộc cũng
như tổng, song nhà nước trực trị, chưa
để xă dân bầu cử cai tổng hay phó tổng. Dinh
Trấn Biên là đơn vị hành chính địa
phương cao cấp, giữ vị trí quan trọng
được đặt ở một vùng đất trấn
giữ nơi biên thuỳ. Dinh Trấn Biên cai quản phủ
Phú Yên gồm 2 huyện Đồng Xuân và Tuy Hoà, thống quản
xứ Nam Bàn gồm Thuỷ Xá - Hoả Xá và vùng thượng
du, kiểm soát và khai thác các quần đảo phía biển
Đông. Phúc Vinh được chúa Săi phong làm Lưu Thủ
và cho phép dùng dấu ấn son v́ có công lớn.
Sự
kiện lịch sử năm Nhâm Th́n (1832):
Trước
Bắc thành chia làm 11 trấn do Tổng trấn, Phó Tổng
trấn, các Trấn phủ, Hiệp trấn và Tham hiệp
cai quản, đến tháng 10 âm lịch năm Tân Măo (1831),
Minh Mạng chia đặt địa hạt các tỉnh
phía Bắc. Tất cả có 18 tỉnh thành như sau: Quảng
Trị, Quảng B́nh, Hà Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hoá, Ninh B́nh,
Hà Nội, Nam Định, Hưng Yên, Hải Dương, Quảng
Yên, Sơn Tây, Bắc Ninh, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hưng Hoá, Cao
Bằng, Lạng Sơn. Đến tháng 10 âm lịch năm Nhâm Th́n (1832), Minh Mạng
chia đặt các hạt và quan lại cho các tỉnh từ
Quảng Nam trở vào. Tất cả có 12 tỉnh như
sau: Quảng Nam, Quảng Ngăi, B́nh Định, Phú Yên, Khánh Hoà, B́nh Thuận,
Phiên An, Biên Hoà, Vĩnh Long, Định Tường, An Giang,
Hà Tiên. Như vậy trong cả nước đến
năm 1832 có 30 tỉnh. Tên đơn vị hành chính cấp
tỉnh có từ 1831- 1832.
Triều
đ́nh trực tiếp nắm quyền cai trị từng
tỉnh. Đặt các chức vụ Tổng đốc,
Tuần phủ, Bố chính, Án sát, Lănh binh,…qui định
nhiệm vụ cụ thể cho từng chức vụ -
định ra 32 điều qui định về chế
độ tâu báo lên vua, về việc xét xử h́nh ấn,
điều động quân đội, tuyển lính, huy
động thuế khoá… để các quan lại trông coi,
cai trị, tuần pḥng ở các tỉnh thành.
Từ
các sự kiện và các mốc lịch sử liên quan nói
trên, với các tiêu chí được các nhà khoa học, các
nhà nghiên cứu tham dự hội thảo thống nhất,
đó là:
(1)
Sự ổn định về mặt tổ chức, tức
là sự xác lập về địa giới hành chính, có
địa danh hành chính mang tên Phú Yên;
(2)
Sự ổn định về đời sống sinh hoạt
của cư dân người Việt trên vùng đất này;
(3)
Sự phù hợp với lịch sử khu vực – trong tiến
tŕnh mở cơi các tỉnh Nam Trung bộ.
Từ 3 tiêu chí trên, xét từng mốc thời
gian và sự kiện lịch sử:
- Sự kiện năm Tân Măo (1471),
có thể đại quân của vua Lê đă đến
đèo Cả (Thạch Bi Sơn), nhưng chưa có cộng
đồng người Việt sống ổn định,
về tổ chức hành chính chỉ mới thành lập huyện
Tuy Viễn thuộc Quảng Nam Thừa Tuyên (B́nh Định
ngày nay).
- Sự kiện năm Mậu Dần
(1578): Lương Văn Chánh tiến công và hạ thành An Nghiệp
sau đó mới chiêu tập lưu dân vào khẩn hoang lập
ấp theo lệnh Nguyễn Hoàng. Thời điểm này cộng
đồng người Việt c̣n ít, sinh hoạt cư dân
Việt trên vùng đất mới chưa ổn định;
chưa xác lập tổ chức hành chính riêng cai trị vùng
đất mới;
- Sự kiện năm
Đinh Dậu (1597): Lương Văn Chánh theo lệnh
Nguyễn Hoàng chiêu tập lưu dân từ Thanh - Nghệ và
Thuận Quảng vượt đèo Cù Mông vào đất Trấn
Biên bắt đầu tạo dựng cơ nghiệp. Sau một
thời gian tiến hành khai hoang ở các khu vực, các làng ấp
h́nh thành. Đây vẫn c̣n trong thời kỳ chiêu dân lập
ấp, cộng đồng dân cư Việt đang từng
bước h́nh thành; việc quản lư các làng ấp mới
c̣n ở h́nh thức tự quản.
- Sự
kiện lịch sử năm Nhâm Ngọ (1602), có ư
kiến kiến giải như sau: mốc thời gian và sự
kiện này chỉ ghi trong sách Khâm
định Việt sử thông giám cương mục,
các sách khác cũng dẫn theo sách này. Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục
do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn từ
năm 1856 đến 1884 hoàn thành; hai sách sử khác cũng
do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn là Đại Nam thực lục tiền
biên (được biên soạn từ năm 1821 đến
1824 hoàn thành) và Đại Nam nhất
thống chí (được biên soạn từ năm
1865 đến 1888 hoàn thành) đều chép giống nhau,
đó là: Năm Tân Hợi, năm thứ 54 bản triều
Thái tổ Gia dụ Hoàng đế (tức là năm 1611)
đặt phủ Phú Yên gồm 2 huyện Đồng Xuân
và Tuy Hoà. Có lẽ sách Khâm định
Việt sử thông giám cương mục nhầm.
- Sự kiện lịch sử
năm Tân Hợi (1611): đây là sự kiện lịch
sử quan trọng được chép rơ ràng trong 2 sách sử
do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn.
Đại Nam thực lục tiền
biên chép:
Tân Hợi, năm thứ 54, bắt đầu đặt
phủ Phú Yên,…cho 2 huyện Đồng Xuân và Tuy Hoà lệ
thuộc vào.
Đại Nam nhất thống chí chép: Năm Tân Hợi
thứ 54 (Lê Hoằng Định thứ 12),...lấy đất
này chia làm 2 huyện Đồng Xuân và Tuy Hoà, đặt phủ
Phú Yên, cũng lệ thuộc vào dinh Quảng Nam.
Như
vậy là từ năm 1611, một đơn vị hành
chính có tên gọi là Phú Yên đă được h́nh thành với
địa phận đă được xác định là từ
đèo Cù Mông đến đèo Cả; Chúa Nguyễn xác lập
quyền cai trị của ḿnh trên vùng đất đă có
người Việt đến khẩn hoang lập làng, sống
ổn định; chấm dứt sự tranh chấp trên
vùng đệm để yên tâm đối phó với Chúa Trịnh
ở mặt Bắc.
Hầu
hết các nhà nghiên cứu, các nhà khoa học tham dự hội
thảo đều chọn mốc thời gian này làm
năm khai sinh Phú Yên.
Việc
chọn mốc thời gian khai sinh đơn vị hành
chính mang tên Phú Yên năm 1611 c̣n phù hợp với
thực tế lịch sử mà các tỉnh láng giềng
đă chọn năm sinh kỷ niệm của tỉnh bạn,
cụ thể: B́nh Định là năm 1602 - tổ chức
kỷ niệm 400 năm vào năm 2002 (1601- 2002), Khánh Hoà là
năm 1653 - tổ chức kỷ niệm 350 năm vào
năm 2003 (1653- 2003).
- Sự kiện lịch sử
năm Kỷ Tỵ (1629): đây là thời kỳ bộ
máy hành chính của Chúa Nguyễn được củng cố
trên vùng đất mới phía Nam sau việc chống đối
của Văn Phong. Phú Yên vẫn là phủ thuộc
dinh Trấn Biên, dinh Trấn Biên cai quản phủ Phú Yên gồm
2 huyện Đồng Xuân và Tuy Hoà, thống quản xứ
Nam Bàn gồm Thuỷ Xá - Hoả Xá và vùng thượng du, kiểm
soát và khai thác các quần đảo phía biển Đông.
- Sự kiện lịch sử năm
Nhâm Th́n (1832): đây là mốc thời điểm xác lập
đơn vị hành chính cấp tỉnh, thực ra trước
đó là dinh, là phủ, là trấn, là đạo,… th́ các
đơn vị hành chính này cũng có địa giới từ
đèo Cù Mông đến đèo Cả thuộc vào dinh Quảng
Nam. Đến năm 1629, mới thành lập Dinh Trấn
Biên cai quản phủ Phú Yên gồm 2 huyện Đồng
Xuân và Tuy Hoà, thống quản xứ Nam Bàn gồm Thuỷ
Xá - Hoả Xá và vùng thượng du, kiểm soát và khai thác
các quần đảo phía biển Đông.
Việc
xác định năm sinh của Phú Yên có ư nghĩa vô cùng
quan trọng, từ mốc lịch sử này sẽ có các hoạt
động để giáo dục truyền thống cho cán bộ
và nhân dân trong tỉnh, thể hiện truyền thống uống
nước nhớ nguồn, ḷng biết ơn tiền nhân
đă dựng nên cơ nghiệp; từ đó tăng cường
và củng cố tinh thần đoàn kết dân tộc giữa
các dân tộc trong tỉnh; qua đó tổ chức các ngày kỉ
niệm 395 năm (1611- 2006), 400 năm (1611- 2011),…mang tính truyền
thống, phát huy các thành tựu, phản ánh diện mạo,
thế mạnh KTXH của địa phương, thu hút
đầu tư, góp phần thực hiện sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá Phú Yên.
Tài liệu tham khảo:
-
Đại cương Lịch sử Việt Nam toàn tập,
Trương Hữu Quưnh chủ biên, NXB Giáo Dục, 2001;
-
Đại Nam liệt truyện, Quốc sử quán, NXB Thuận
Hoá Huế, 1993;
-
Đại Nam nhất thống chí, Q.10- 11, Quốc sử
quán, NXB Nha văn hoá, SaiGon, 1964;
-
Đại Việt sử kư toàn thư, Ngô Sĩ Liên, NXB
KHXH, Hà Nội, 1971;
-
Địa bạ Phú Yên, Nguyễn Đ́nh Đầu, NXB
TpHCM, 1997;
-
Địa chí Phú Yên, UBND tỉnh Phú Yên, NXB CTQG, 2003;
-
Đất nước Việt Nam qua các đời, Đào
Duy Anh, NXB Thuận Hoá Huế, 1997;
- Khâm Định Việt sử thông giám
cương mục, Quốc sử quán, NXB Giáo dục, 1998;
- Lịch
sử Đảng bộ tỉnh Phú Yên, Ban Tuyên giáo Tỉnh
ủy Phú Yên
- Lịch
sử Vương quốc Champa, Lương Ninh, NXB Đại
học QG Hà Nội, 2004;
- Nguyễn
Trăi toàn tập, Viện sử học, NXB KHXH, Hà Nội
1976;
-
Phú Yên một thời để nhớ, Nhiều tác giả,
Thư viện Phú Yên, 2001;
- Việt
Nam những thay đổi địa danh và địa giới
hành chánh, Nguyễn Quang Ân, NXB Thông tấn, Hà Nội, 2003;
-
Việt Nam những sự kiện lịch sử, 4 tập,
Viện sử học, NXB Giáo dục, 1999;
- Xứ Đàng Trong, Li
TaNa, NXB Trẻ, 1999;
VIỆC
KHẨN HOANG LẬP LÀNG Ở
PHÚ YÊN VÀO CÁC THẾ KỶ 17, 18, 19
Để tiện đối
chiếu khi nh́n lại việc khẩn hoang, lập làng ở
Phú Yên vào các thế kỉ 17, 18, 19, trước hết xin
nêu ra một số thời điểm lịch sử liên
quan đến vùng đất này:
- Năm 1558 Nguyễn
Hoàng được cử vào trấn đất Thuận
Hóa, năm 1570 kiêm trấn cả Thuận Hóa và Quảng Nam,
- Năm 1578 Nguyễn
Hoàng (chúa Tiên) cử Lương Văn Chánh vào trấn giữ
Tuy Viễn.
- Năm
1597 chúa Nguyễn Hoàng cử Lương Văn Chánh
đưa lưu dân vào khai khẩn vùng Cù Mông, Bà Đài, Bà Diễn,
Bà Nông,
- Năm
1611 chúa Nguyễn Hoàng cử Văn Phong vào b́nh định
vùng đất Lương Văn Chánh khẩn hoang, lập
phủ Phú Yên, gồm hai huyện Đồng Xuân và Tuy Ḥa,
Văn Phong làm Lưu thủ,
- Năm
1629 chúa Nguyễn Phước Nguyên (chúa Săi) cho rằng
Văn Phong làm phản cử Nguyễn Phước Vinh vào dẹp
yên, đổi phủ Phú Yên thành dinh Trấn Biên, Nguyễn
Phước Vinh làm Trấn thủ,
- Năm 1744 chúa Nguyễn
Phước Khoát (Vơ vương) chia đặt cả cơi
Nam Hà làm 12 dinh, dinh Trấn Biên đổi là dinh Phú Yên,
- Từ năm 1773 vùng đất Phú Yên thuộc nhà
Tây Sơn,
- Năm 1793 Nguyễn Ánh
(Nguyễn vương) lấy lại Phú Yên. Nhưng thực
sự từ 1773 đến 1801 Phú Yên là đất tranh chấp
dai dẳng giữa nhà Tây Sơn và Nguyễn vương, Phú
Yên thực sự thuộc nhà Nguyễn từ năm 1801,
- Năm
1808 vua Gia Long đổi dinh Phú Yên làm trấn Phú Yên,
- Năm
1826 vua Minh Mạng đổi trấn Phú Yên làm phủ Phú
Yên,
- Năm
1831 vua Minh Mạng đổi phủ Phú Yên làm phủ Tuy An,
- Năm 1832 vua Minh Mạng
chia lại các đơn vị hành chính trong nước,
thăng phủ Tuy An làm tỉnh Phú Yên,
- Năm
1853 vua Tự Đức đổi tỉnh Phú Yên thành đạo
Phú Yên,
- Năm 1875 vua Tự
Đức lại thăng đạo Phú Yên thành tỉnh Phú
Yên.
Thời gian trị v́ của
các chúa Nguyễn:
- 1558 - 1613 : Nguyễn
Hoàng (chúa Tiên),
- 1613 - 1635 : Nguyễn
Phước Nguyên (chúa Săi),
- 1635 - 1648 : Nguyễn
Phước Lan (chúa Thượng),
- 1648 - 1687 : Nguyễn
Phước Tần (chúa Hiền),
- 1687 - 1691 : Nguyễn
Phước Trăn (chúa Nghĩa),
- 1691 - 1725 : Nguyễn
Phước Chu (Quốc chúa),
- 1725 - 1738 : Nguyễn
Phước Trú (chúa Ninh),
- 1738 - 1765 : Nguyễn
Phước Khoát (Vơ vương),
- 1765 - 1776 : Nguyễn
Phước Thuần (Định vương)
- 1776 - 1802 : Nguyễn Ánh
(Nguyễn vương).
Các vua nhà Tây Sơn:
- 1778 - 1793 : Thái Đức
(Nguyễn Nhạc),
- 1788 - 1792 : Quang Trung (Nguyễn
Huệ),
- 1792 - 1802 : Cảnh Thịnh
(Nguyễn Quang Toản).
Các vua nhà Nguyễn:
- 1802 - 1819 : Gia Long,
- 1820 - 1840 : Minh Mạng,
- 1841 - 1847 : Thiệu Trị,
- 1847 - 1883 : Tự Đức,
- 1883 : Dục Đức
– Hiệp Ḥa,
- 1884 : Kiến Phước,
- 1884 - 1888 : Hàm Nghi,
- 1885 - 1888 : Đồng
Khánh,
- 1889 - 1907 : Thành Thái…
T́m hiểu lịch sử
mở đất về phương Nam, từ Quảng
B́nh đến Hà Tiên có lẽ Phú Yên là nơi nhiều tồn
nghi hơn hết.
Từ năm 1471 đến
khi Lương Văn Chánh đưa dân vào đây, vùng này là
đất ki mi, thuộc về ai (?), gọi tên là ǵ (?), lịch
sử cũng c̣n mờ mịt. Cái tiểu quốc Hoa Anh
để cùng Nam Bàn và Chiêm Thành ràng buộc trong thế tam
phân vẫn đặt bên dấu hỏi. Ngay như thời
điểm Lương Văn Chánh bạt phá Thành Hồ
năm 1578 cũng do suy luận mà có, sách vở không chép chính
xác. Đạo sắc năm 1597 cử Lương Văn
Chánh lo việc khai khẩn từ Cù Mông đến Bà Nông
đóng dấu Tổng trấn tướng quân chi ấn (tức
Nguyễn Hoàng) nhưng chức vụ của ông là ǵ, tổ
chức hành chính thế nào… không t́m thấy công văn tiếp
theo quy định. Phải từ năm 1611 về sau lịch
sử Phú Yên mới được sáng tỏ dần.
Nhưng đến giai đoạn nhà Tây Sơn lại gặp
trở ngại v́ tư liệu nhà Tây Sơn hẳn đă bị
phần thư, tư liệu nhà Nguyễn chỉ ghi một
phía, chỉ chú ư mặt quân sự.
Đọc lại sắc
năm 1597 của chúa Nguyễn Hoàng:
“…Bảo cho Phù Nghĩa
hầu Lương Văn Chánh (…) sức các hộ nhân dân mới
đến tựu các xứ Cù Mông, Bà Đài, Bà Diễn, Bà
Nông trên từ nguồn di dưới tới cửa biển
kết lập địa phận gia cư khai khẩn ruộng
đất hoang tới khi thành thục nộp thuế
như lệ thường…”. Có thể h́nh dung vùng Phú Yên
thời ấy từ Bắc vào
Nếu coi Phú Yên là đất
hoang th́ dù sao công việc phục hóa một phần diện
tích quan trọng cũng có phần thuận tiện hơn
và có thể phân chia thành ba vùng:
1. Những nơi là ruộng
đất cũ bỏ hoang sau chiến tranh, tập trung tại
các vùng trước kia là làng xóm ở đồng bằng,
việc giao thông thuận tiện bằng cả đường
bộ lẫn đường sông,
2. Những nơi là lân cận
của các vùng nói trên, ven đồng bằng, cận
sơn, tương đối gần và có thuận tiện
nhưng trước kia không đủ lực lượng
khai khẩn,
3. Những
nơi ở xa, cao nguyên, miền núi, các thung lũng đầu
nguồn… việc đi lại bất tiện, chưa
được khai khẩn, nhưng do nhu cầu an ninh
để giữ vững đồng bằng, cũng là nhu
cầu dàn trải dân chúng khắp từ nguồn di đến
cửa biển cần phải phá hoang, lập làng.
Việc khẩn hoang tại
ba vùng tiến hành đồng thời theo một quy mô chung.
T́nh h́nh Phú Yên lúc bấy giờ
An cư mới lạc
nghiệp, những biến cố của thời cuộc
có ảnh hưởng lớn đến mọi công việc
của người dân. Điểm lại t́nh h́nh vùng đất
Phú Yên lúc bấy giờ thấy rơ từng giai đoạn.
- Từ năm 1597 đến
năm 1611, là thời kỳ đặt dưới quyền
chỉ huy của Lương Văn Chánh. Lịch sử
không ghi rơ chức vụ chính thức của ông (đời
sau cứ gọi một cách chung chung là Trấn Biên quan - ông
quan cai trị vùng Trấn Biên), cũng không ghi rơ tổ chức
làng xóm lúc này ra sao. Phải chăng đây là giai đoạn
gần như quân quản? Tuy vậy có thể thấy
đây là một gian đoạn ổn định. Sau
năm 1578 và sau đợt di dân ồ ạt năm 1579 chắc
chắn người Việt mang vào đây cả một khí
thế với quyết tâm t́m sự no ấm trên vùng đất
mới.
- Từ năm 1611 đến
năm 1629, là thời kỳ đặt dưới quyền
điều hành của Văn Phong. Văn Phong được
cử vào dẹp yên cuộc biến loạn năm 1611. Ông
đă thành công nhanh chóng, không gặp khó khăn ǵ. Và nhờ
công lao xây dựng của Lương Văn Chánh trong 14
năm với những thành tựu đáng kể mà một
trang sử mới được viết nên: phủ Phú Yên
chính thức thành lập, vùng đất hoang hóa ngày nào nay
đă có tên gọi.
- Từ năm 1629 đến
năm 1773, là thời kỳ ổn định tương
đối dài, chỉ có một vài biến động nhỏ.
Năm 1629 Văn Phong bị kết tội “làm phản”,
có thể ông có mưu đồ thực, cũng có thể
đây là một vụ án mang tính “chính trị”, chúa Săi cần
thanh trừng một người có công với chúa Tiên mắc
bệnh “công thần” chẳng hạn. Với 18 năm cầm
quyền tiếp tục sự nghiệp của
Lương Văn Chánh, vẫn trong không khí gian nan buổi mở
cơi, Văn Phong đă đẩy mạnh tiến độ
khẩn hoang lập làng, để ngay sau khi ông bị Nguyễn
Phước Vinh trừ khử, Phú Yên được nâng
lên cấp “dinh” là cấp hành chính địa phương
cao nhất nước, ngang hàng với các nơi đă có một
bề dày lịch sử. Đó cũng là thể hiện tầm
quan trọng của tiền đồn phía
Trên 140 năm này chỉ
có 2 vụ biến động. Năm 1695 nhóm Linh Vương nổi lên ở
Quảng Ngăi, bị đàn áp, dư đảng chạy vào
Phú Yên, nhưng bị bắt nộp. Quan trọng hơn là
năm 1709 với vụ mưu phản của Nội hữu
pḥ mă Tống Phước Thiệu, cùng Cai đội Nguyễn
Cửu Khâm và Tôn Thất Thận ngầm cấu kết với
một số hào kiệt, mưu đồ trước lấy
B́nh Khang, sau lấy Phú Yên, ra lấy Quảng Nam rồi tiến
về lấy Chính dinh Phú Xuân. Cơ mưu thất bại,
Thiệu bị băi làm thứ dân, bị tù, Thận bị
cách làm lính, một số khác bị xử tử.
- Từ năm 1773 đến
năm 1801, là thời kỳ tranh chấp dai dẳng giữa
nhà Nguyễn Tây Sơn và Nguyễn Vương (Ánh). Là thời
kỳ bất ổn nhất của Phú Yên. Nằm giữa
gọng kềm của hai thế lực, phía Bắc Qui
Nhơn là đất thang mộc của vua Tây Sơn, phía
Nam Diên Khánh là căn cứ vững chắc của Nguyễn
Vương, Phú Yên là chiến trường, là nơi để
các tướng tài hai bên dùng vơ công xây dựng binh nghiệp.
Có năm như 1799, 1800 Phú Yên đến mấy lần thay
vua đổi chủ, quân Qui Nhơn kéo vào th́ quân Diên Khánh
rút, quân Diên Khánh tấn công th́ quân Qui Nhơn rút, người
dân Phú Yên phải đi lính cho hai bên, đóng thuế cho hai
bên. Vào giai đoạn cuối cùng của cuộc chiến,
Tham đốc Tây Sơn Phạm Văn Điềm với
kế hoạch tử chiến, biên hết dân đinh làm
lính, khiến quân Diên Khánh phải đợi đại quân
từ Sài G̣n ra mới dám tiến. Như vậy việc khẩn
thêm đất hoang lập thêm làng xóm chắc chắn là thật
khó khăn.
- Sau hết, trong thế
kỉ 19, dưới triều Nguyễn, có cuộc khởi
nghĩa của Văn thân Cần Vương năm 1885 -
1887 do Lê Thành Phương lănh đạo. Thời gian tuy ngắn
nhưng sức cuốn hút lớn, cả Phú Yên từ
Việc khẩn hoang hầu
như liên tục theo suốt thời gian. Lực lượng
khẩn hoang tại Phú Yên gồm nhiều đợt và mỗi
đợt có thành phần khác nhau, xuất phát từ nhiều
vùng miền, nhiều địa phương khác nhau.
Quan trọng hơn hết
là những lưu dân đầu tiên từ Thuận Quảng
theo sau vó ngựa Lương Phù Già vào năm 1597. Phần
đông họ là khách hộ của các thôn phường, theo
nghĩa chúng ta hiểu ngày nay là những người
chưa được đăng kư hộ khẩu thường
trú, một số là những dân nghèo không có ruộng đất,
ra đi với ước vọng có cuộc sống mới
tốt đẹp hơn. Số lượng lưu dân này
chắc chắn là rất đông và bổ sung nhiều lần
trong nhiều năm để có thể lan toả định
cư khắp nơi, vùng đồng bằng, ven biển từ
Cù Mông (huyện Sông Cầu), Bà Đài (châu thổ Sông Cái, Tuy
An) đến Bà Diễn (châu thổ sông Đà Rằng, Tuy
Ḥa), Bà Nông (châu thổ sông Bàn Thạch, Đông Ḥa) và trên tự
đầu nguồn là vùng huyện Sơn Ḥa, huyện Đồng
Xuân.
Năm 1648 đời chúa
Thượng Nguyễn Phước Lan quân Nguyễn bắt
được nhiều quân lính của chúa Trịnh, các quan
tướng được trả về, c̣n quân lính
đem chia ra cứ 50 người làm một ấp, cấp cho
lương ăn nửa năm, phân phối từ Thăng
B́nh, Điện Bàn vào đến Phú Yên làm ăn sinh sống.
Từ năm 1655 đến
năm 1660 đời chúa Hiền Nguyễn Phước Tần
quân chúa Nguyễn vượt sông Gianh chiếm 7 huyện Nam
sông Lam đưa một số nhiều người dân xứ
Nghệ vào khai khẩn vùng B́nh Định, Phú Yên.
Hai đợt này số
lượng hẳn là đáng kể và vốn là những tù
binh được tha làm dân chắc họ phải đến
những nơi xa hơn, hoàn cảnh buộc họ phải
ra sức làm việc nhiều hơn.
Dưới thời nhà
Nguyễn vẫn có lệ tha cho các tù phạm cho họ
đi khẩn hoang.
Năm 1835 vua Minh Mạng
dụ các tỉnh Quảng Ngăi, B́nh Định, Phú Yên, Khánh
Ḥa, B́nh Thuận xét trong hạt có những chỗ đất
có thể cày trồng mà bỏ không, dân không thể khai khẩn
được hết th́ cấp ngay cho những tù phạm
được tha kia để họ ra sức làm lụng
trồng cấy. Hàng tháng mỗi người được
cấp 1 phương gạo. Niên hạn đánh thuế và
lập ngạch nộp thuế theo lệ y như trước.
Năm 1839 quan tỉnh Phú
Yên tâu về triều đ́nh: Trước kia những tù phạm
được tha cho, chia ghép về các thôn xă thuộc hạt
trích cấp cho ruộng hoang để khai khẩn, nay tới
kỳ hạn bắt đầu thu thuế, xin ghi làm ruộng
đất tư và theo lệ thu tô. Bọn họ đă có
cơ nghiệp làm ăn, không khác ǵ những người
dân thường, xin cứ chiếu số người hiện
tại mà thu thuế thân.
Như vậy sau khi
được tha, đi khẩn hoang, có được ruộng
đất, những tù phạm này đă được trả
lại quyền công dân làm một tráng đinh.
Năm 1865 Ngự sử
Nguyễn Văn Phương tâu: Ba tỉnh B́nh Thuận,
Khánh Ḥa, Phú Yên đất rộng người ít chưa mở
mang được hết, như những nơi Đồng
Cụ, Quán Đế ở Phú Yên, Ḥa Mă, Ḥa Tân, Ḥa Quân ở
Khánh Ḥa, Chu Thỗn, Đồng Mới ở B́nh Thuận
phần nhiều ở đó có thể cày cấy, mà một
hạt Quảng Nam đinh nhiều ruộng ít, kẻ
ăn chơi không rất nhiều. Vua Tự Đức cho
đặt Nha Doanh điền, cử Nguyễn Văn
Phương làm Khâm phái doanh điền, đến các tỉnh
Quảng Nam, Quảng Ngăi đưa dân ngoại tịch và
không có tên trong sổ bộ vào Phú Yên, Khánh Ḥa, B́nh Thuận
chọn đất chia cho ở, cấp ngưu canh điền
khí để khẩn hoang, lập thành thôn xă.
Năm 1866 vua Tự Đức
cấp ấn Khâm phái Quan pḥng cho Phan Trung đưa số
dân Nam Kỳ mộ nghĩa vốn là thuộc hạ của
ông đang tập trung tại các đồn điền B́nh
Thuận đang bị người Pháp nghi ngờ, đến
khai hoang ở Khánh Ḥa, Phú Yên. Vua Tự Đức bảo
Phan Trung: “Lũ ngươi hết ḷng làm việc cho ổn
thỏa là trung hiếu vẹn cả hai, tấm thân hữu
dụng nên giữ ǵn để đợi, triều
đ́nh đâu nỡ bỏ đi”.
Ngoài ra chắc
c̣n nhiều luồng người di trú khác đến Phú Yên
qua nhiều thời kỳ, tự phát từng nhóm hay trong
khuôn khổ chủ trương của nhà nước
nhưng do khiếm khuyết tư liệu chưa tra cứu
được.
Tại địa
phương, việc các quan chức chủ trương cho
dân chúng khẩn hoang được khen thưởng, khuyến
khích. Năm 1839 tại huyện Tuy Ḥa có nhiều đồng
ruộng hơi xa sông ng̣i nên bỏ hoang. Thự đốc
là Tôn Thất Lang tổ chức khai cừ dẫn nước
rồi cho dân khai khẩn thành ruộng, tất cả
được hơn 1.000 mẫu. Vua Minh Mạng khen là v́
dân mở mang nguồn lợi, thưởng gia một cấp.
C̣n ruộng ấy chiếu lệ sau ba năm bắt đầu
thu thuế. Vào năm này huyện Tuy Ḥa đă mở rộng
ra phía Bắc sông Đà Rằng, xét những chỗ xa sông
ng̣i nơi Tôn Thất Lang mở rộng có lẽ là vùng Nam
huyện Tây Ḥa, Tây Nam huyện Đông Ḥa ngày nay.
Chính sách của các triều đại với việc
khẩn hoang
Từ thế kỉ 16
để xây dựng một cơi giang sơn độc lập,
có khả năng chống lại thế lực thống trị
của chúa Trịnh một cách hữu hiệu, chúa Nguyễn
đă ra sức khuyến khích dân chúng, và cả họ hàng
nhà chúa, quan lại các địa phương khai khẩn
đất đai, mở rộng sản xuất nông nghiệp
cũng như các ngành kinh tế khác. Ruộng đất xứ
Đàng Trong cũng được chia làm ba loại: ruộng
công, ruộng tư và ruộng của chúa.
Năm 1669 chúa Hiền Nguyễn
phước Tần cử các quan văn đứng đầu
là Hồ Quang Đại chia nhau đi các nơi đo đạc
ruộng đất đang được cày cấy đặt
làm ruộng công, giao cho xă chia đều cho dân cày cấy nộp
thuế. Từ đó về sau, người nào khai khẩn
được thêm th́ cho phép đặt làm ruộng tư,
lấy đó làm lệ vĩnh viễn, dân xă không được
tranh chiếm. Nhờ vậy diện tích ruộng đất
ngày càng mở rộng.
Sau thời chúa Nguyễn,
triều đại Tây Sơn cố gắng phục hồi
sản xuất nông nghiệp bị tŕ trệ dưới
thời Định vương Nguyễn Phước Thuần
do sự nhũng nhiễu của các quan bằng lệnh
cưỡng bách phục hóa. Nhưng do tồn tại ngắn
ngủi nhà Tây Sơn chưa kịp tiến hành những biện
pháp tích cực về vấn đề ruộng đất.
Vua Minh Mạng nhà Nguyễn
rất quan tâm đến việc khẩn hoang nhưng cũng
quan tâm đến nỗi khổ của người di dân,
trong một buổi thiết triều tháng 5 (âl) năm 1839 bảo
các thị thần: Các tỉnh Phú Yên, Khánh Ḥa, B́nh Thuận
đất dài hơn ngàn dặm, đất bỏ hoang rất
nhiều, dân cư thưa ít, nếu muốn di người
nơi khác đến, th́ thường t́nh người ta ở
đâu yên đấy không muốn rời bỏ. Lúc bắt
đầu khai thác cơi bờ cố nhiên phải tùy thời
mà làm cho thích hợp. Nay đang buổi thái b́nh vô sự, dân
Nam Bắc hai kỳ đang làm ăn yên ổn, nếu di
nơi này sang nơi kia chẳng những làm cho người
ta sợ hăi mà c̣n cái lo chúng bị lưu li thất sở
th́ thật không nỡ. Nên chờ đó một thời gian
người sinh ngày một nhiều ra thế tất phải
dần dần mở mang, như Kim Sơn, Tiền Hải
ngày xưa chỉ là miếng đất hoang rậm mà nay
thành hai huyện. Có đất th́ có dân cũng là cái thế
tất nhiên vậy.
Trước đó, năm
1834 vua sai Phó Vệ úy vệ giám thành Nguyễn Văn Xướng
đem biền binh thuộc hạ đo h́nh thế núi sông từ
Phú Yên vào Nam vẽ bản đồ dâng lên. Khi hoàn tất
Xướng được thưởng 10 lạng bạc
và mỗi biền binh một tháng lương. Những bản
đồ này tất nhiên được dùng cho nhiều việc,
trong đó có việc khẩn hoang lập làng.
Trở lại
với sắc năm 1597, nhiệm vụ của
Lương Văn Chánh khi vào mở cơi Phú Yên là kết lập
địa phận gia cư khai khẩn ruộng đất
hoang tới khi thành thục nộp thuế như lệ
thường. Năm 1699 chúa Hiền Nguyễn Phước
Tần ấn định lệ thuế: Ruộng nhất
đẳng mỗi mẫu thu thóc 40 thăng, gạo 8 hợp,
ruộng nhị đẳng mỗi mẫu thu thóc 30
thăng, gạo 6 hợp, ruộng tam đẳng mỗi mẫu
thu thóc 20 thăng, gạo 4 hợp. Lại cứ 1 thăng
thóc th́ thu tiền phụ là 3 đồng. Ruộng mùa thu và
đất khô th́ không chia thứ bậc, mỗi mẫu thu
3 tiền, không đủ mẫu thu 1 tiền. Tuy vậy, v́
Phú Yên là đất mới khai thác nên việc thu thuế vẫn
c̣n rộng răi và đơn giản. Năm 1758 Vơ
vương Nguyễn Phước Khoát cử Nguyễn Khoa
Trực làm Tuần phủ phủ Phú Yên mới đốc
thu các thứ thuế.
Thuế ruộng thời
Tây Sơn cũng chia làm 3 hạng nhất, nhị, tam đẳng.
Tư điền thuế nhẹ hơn công điền.
Ngoài ra mỗi mẫu c̣n phải nộp một khoản tiền.
Năm 1800 Nguyễn
Vương (Ánh) lệnh thu tô ruộng ở Phú Yên để
đáp ứng nhu cầu chiến trường, căn cứ
vào sổ điền lập năm 1798 thu thóc chứa ở
các bảo La Thai, Hội An. Nhưng năm sau 1801 phải
băi bỏ sưu ruộng ở Phú Yên, v́ Lưu thủ Phạm
Tiến Tuấn chiếu theo số đinh số điền
bắt phu kể hàng vạn, dân chúng mệt nhọc, trốn
tránh ngày càng nhiều
Thời nhà Nguyễn việc
phân chia đẳng điền tiếp tục duy tŕ, chỉ
khác ở số lượng thóc phải nộp cho mỗi
hạng tùy theo thời điểm. Đời Gia Long cho lập
địa bạ và điền bạ các làng. Địa bạ
là sổ miêu tả và ghi nhận quyền sở hữu từng
mảnh ruộng đất, điền bạ là sổ
tính thuế. Trong địa bạ ruộng mùa, ruộng
chiêm, ruộng hai mùa hoặc các hạng đất, bao nhiêu
mẫu, sào, thước tấc, tọa lạc tại
đâu, Đông Tây tứ chí phải ghi rơ ràng. Địa bạ
làm một lần khi đo đạc. Địa bạ
đời Gia Long đến đời Minh Mạng
được truy dụng. Điền bạ lúc đầu
cứ 5 năm một lần, về sau mỗi năm một
lần, mỗi xă lập 3 bản đệ về Bộ Hộ
kiểm tra, 1 bản lưu tại bộ, 1 bản giao về
tỉnh và 1 bản giao cho xă. Nhà Nguyễn đă lấy lại
thước đo ruộng (điền xích) của nhà Lê
làm chuẩn.
Những trở ngại gặp phải trong việc
khẩn hoang và lập làng
Có 3 trở ngại
đáng kể người dân gặp phải trong công cuộc
khẩn hoang và cả việc lập làng. Đó là t́nh h́nh an
ninh trật tự, chiến sự – khí hậu thời tiết,
thiên tai dịch bệnh – và nạn ác thú, hùm thiêng sấu dữ.
Trước
hết là vấn đề an ninh, như đă tŕnh bày trong
phần t́nh h́nh Phú Yên lúc bấy giờ, trên địa bàn
này có nhiều âm mưu tạo phản, cũng như các trận
đánh giữa hai nhà Nguyễn, giữa quân Nam triều,
quân Pháp và lực lượng Văn thân Cần
vương… trong từng giai đoạn đă gây khó
khăn không ít cho việc khai hoang.
Thứ hai là khí hậu và
thiên tai. Vào thời ấy rừng hoang cỏ rậm c̣n nhiều
tạo ra sự khắc nghiệt trong khí hậu. Chỉ trừ
vùng đồng bằng hiền lành c̣n vùng cận sơn và
nhất là vùng núi, cao nguyên đều là vùng chướng
khí, nước độc, nhiều bệnh tật, bệnh
sốt rét và các bệnh dịch lây lan đă gây nhiều tử
vong và ngăn cản tiến tŕnh khẩn hoang. Cho đến
đầu thế kỉ 20, đập Đồng Cam
được xây dựng chỉ cách thành phố Tuy Ḥa có
30km mà trong báo cáo của Sở Thủy nông Đông
Dương vẫn cho rằng vị trí thi công ở vào
nơi khí hậu rất độc, mặc dù có nhiều biện
pháp đề pḥng và thuốc kư-ninh được phát một
cách có quy củ, các tổn thất quan trọng vẫn do
nguyên nhân sốt rét. Các tác giả sách Địa dư tỉnh Phú Yên cũng ghi nhận
có nhiều nơi lam chướng, dân chúng bị sốt
rét. Xem thế th́ các thế kỉ trước vùng Đồng
Xuân, Sơn Ḥa đối với người đi khẩn
hoang đáng sợ biết chừng nào!
Thời tiết
ở Phú Yên theo các tư liệu xưa th́ nhiều năm nắng
hạn lại nhiều năm băo lụt. Những năm
được mùa ít, cho nên được mùa là vua chúa vui mừng.
Như năm 1829 sau mùa xuân gạo đắt trấn thần
phải xuất thóc kho cho dân vay th́ nông dân trúng vụ tháng
ba, tin mừng lập tức báo về kinh. Năm 1846 Phú Yên
là một trong những địa phương được
mùa khiến vua Thiệu Trị làm thơ mừng: “Cửu
quận giai trung nẫm. Thập châu cánh thượng phong”
(Chín quận đều được mùa vừa. Mười
châu lại được mùa to). Một số năm Phú
Yên được mùa lớn nữa như năm 1861, 1880
v.v…
Thế nhưng số
năm bị thiên tai nhiều hơn. Nạn đói năm
1798 khiến cho dân chúng Phú Yên nhiều người già trẻ
dắt d́u nhau vào Diên Khánh kiếm ăn. Trận lụt
năm 1811 nhiều nhà cửa trôi mất, nhiều người
chết đuối. Triều đ́nh cử Vệ úy Tôn Thất
Bính và Tham tri Nguyễn Hữu Thận đi phát chẩn cho
Phú Yên 19.000 phương gạo. Năm 1820 lại bị lụt.
Trận lụt năm 1822 cửa biển Phú Sơn bị vỡ,
tạo thành một cửa mới cách cửa cũ trên 1.000
trượng. Năm 1824 đồng lúa Phú Yên bị hư hại
v́ hạn và băo. Trận lụt năm 1825 lở núi Bà
Sơn, nhiều nhà dân sập đổ, nhiều người
chết. Trận băo năm 1836 hơn 4.000 nóc nhà bị sập,
hơn 100 người chết, vua cho quan tỉnh đem tiền
kho đến chẩn tuất. Các năm 1842, 1867, 1878 v.v…
Phú Yên lại bị băo lụt, mất mùa, thiếu ăn…
Một hiện tượng
thiên nhiên kỳ lạ được ghi vào sách “Thực
lục chính biên” đó là cuối năm 1819 ở Phú Yên
có tiếng “trống trời”. Giờ dậu ngày hôm ấy
trời không có mưa gió chợt nghe trên không có một tiếng
như sấm, từ Cù Mông trở vào, từ Đại
Lănh trở ra, đầu nguồn cửa biển, cửa
nhà quan dân không chỗ nào là không chuyển động, phút chốc
th́ thôi.
Lại c̣n t́nh trạng sâu
bọ phá hại hoa màu cũng thường xảy ra.
Năm 1866 ở Phú Yên, Khánh Ḥa có sâu cắn lúa, sâu có 2 giống
vàng và xanh, h́nh dáng như con bọ ngựa, lúc bấy giờ
cho rằng tự nước Man (Cao Miên) tràn sang.
Với quan niệm vua là bậc
thiên tử thay trời cai trị muôn dân, quan là người
thay mặt vua chăn dắt dân chúng trong một địa
phương, nên những khi có thiên tai hay dịch bệnh
như thế là do vua quan thiếu đức, cho nên ngoài việc
cứu tế, phát chẩn, giảm thuế (như những
năm 1799, 1801, 1824, 1825 v.v…) vua quan c̣n phải tạ tội
với trời đất. Năm
1820 bệnh dịch từ B́nh Thuận đến Quảng
B́nh, Trấn thần Phú Yên là Nguyễn Văn Quế đem
t́nh h́nh dịch bệnh dâng biểu xin chịu tội. Vua
Minh Mạng dụ: “Nếu trẫm không thiếu đức
th́ tai vạ đâu xảy ra với muôn dân, Nguyễn
Văn Quế chỉ là một mục thú c̣n tự nhận
lỗi ḿnh, huống chi trẫm là vua thiên hạ, có thể
chối lỗi sao được?”.
Thứ ba,
người dân khẩn hoang nơi rừng núi c̣n phải
đối mặt với hùm thiêng sấu dữ. Con
đường quan trọng từ huyện lị Đồng
Xuân qua làng Vân Ḥa đoạn đi về phía Tây suốt
đến địa giới Thủy Xá, Hỏa Xá
được miêu tả là núi khe hiểm trở lại có
nhiều nạn cọp. Cọp ở vùng rừng núi miền
tây Phú Yên sau này c̣n nhắc nhở trong câu tục ngữ “Cọp
núi Lá, cá sông Hinh” (nay thuộc huyện Sông Hinh) và cọp
Truông Bà Viên (nay thuộc huyện Sơn Ḥa). Năm 1840 cọp
dữ xuống làng, Án sát Phú Yên Lê Khiêm Quang và Suất đội
Hoàng Đức Diệm đem dân binh đi bắt, Diệm
bị cọp cắn cào, bị thương và chết,
Quang bị phạt giáng một cấp.
Thông thường người
ta hay nói đến cọp Khánh Ḥa với câu tục ngữ
“Cọp Khánh Ḥa, ma B́nh Thuận” hay cụ thể
hơn là “Cọp Ổ Gà, ma Đồng Lớn”,
nhưng cọp Phú Yên cũng không kém. Ở vùng núi người
ta rất sợ cọp, gọi cọp là “ông”, nói chung chung
là ông cọp, ông beo, ông cà đỗ, cụ thể hơn
theo màu lông là ông vằn tàu cau, ông vằn vắt khăn, ông
mun, ông bạch v.v… Người ta tin rằng cọp rất
thính tai, bất cứ ở đâu, lúc nào có ai “nói hành” ông
đều nghe được, tánh ông hay thù sâu và nhớ
dai, sau đó đi t́m kẻ vô lễ để hỏi tội,
nhưng nếu lỡ vấp ḥn đá nhỏ hay sợi dây
là ông quên mất, kẻ vô lễ được thoát nạn.
Thật là may, rừng núi biết bao nhiêu là dây là đá để
cho ông vấp và quên nên chưa có ai nói hành mà bị ông trả
thù. Những làng vùng núi sau tết Nguyên Đán có lễ cúng
khai sơn rồi mới mở cửa rừng cho dân vào
khai thác lâm sản. Khi cúng xong người ta đặt nguyên
cái đầu heo tại chỗ để cọp về
ăn.
Đến đầu thế
kỉ 20, Công sứ Phú Yên A. Laborde c̣n thuật một chuyện
cọp ngay trong vùng duyên hải, đó là chuyện năm
1926, dân làng B́nh Thạnh giết được một con cọp
ba chân rất hung dữ và có sức mạnh phi thường.
Ông cho biết trên tai con cọp có 17 vết xước, các
quan Nam triều giải thích rằng đó là dấu tích nó
đă ăn thịt 17 người v́ mỗi lần bắt
được một con người cọp cào lên tai một
vết. Một chuyện cọp khác là ngày
Một chuyện dân gian ở
làng Vân Ḥa (Sơn Ḥa) nhiều người biết là chuyện
Phụ tử Chăm Mùng. Rằng thuở ban đầu mới
quy dân lập ấp nơi đây bị một con thuồng
luồng to lớn đến quấy phá, quật đổ
nhà cửa, dày nát hoa màu, giết hại gia súc… dân làng không thể
yên ổn làm ăn nhưng không cách nào trừ khử
được. Sau người ta phải đến vùng
các dân tộc thiểu số mời ông Chăm Mùng đến
giúp sức. Với tài thiện xạ, trí thông minh, ḷng can
đảm cha con Chăm Mùng đă diệt được
thuồng luồng, giúp dân Vân Ḥa an cư lạc nghiệp.
Để tưởng nhớ công ơn ấy về sau có
tục lệ là mỗi khi làng xóm hay gia đ́nh cúng bái đất
đai viên trạch người ta có một mâm cơm vái “Phụ
tử Chăm Mùng”, tục này đến năm 1945 mới
bị bỏ.
Xét câu chuyện không thấy
miêu tả con thuồng luồng h́nh dáng thế nào, có vảy,
có chân hay không, chỉ có vài chi tiết đáng chú ư là: miệng
há ra màu đỏ như máu, có mùi tanh, đuôi mạnh, khi
lướt đi tạo ra tiếng gió ồ ồ… Vùng cao
nguyên Vân Ḥa nhiều g̣ cỏ, trảng tranh, suối đá,
hang gộp, vậy phải chăng con thuồng luồng
này là một con sấu dữ, một con trăn lớn, rồi
ngày qua tháng qua bên bếp lửa hồng mùa đông hay dưới
ánh trăng vàng mùa hạ thế hệ này kể cho thế
hệ khác nghe nó đă biến
thành con thuồng luồng huyền thoại, h́nh dáng không rơ
nhưng có sức mạnh vô song, khiến cho người
dân Vân Ḥa coi đó là mối hiểm nguy.
Có lẽ
lúc ấy những lưu dân lên vùng cao nguyên khẩn hoang lập
làng chưa quen đối phó với những trăn lớn,
sấu dữ sống ở thảo nguyên tranh đế, bờ
suối gộp đá, nên phải nhờ đồng bào thiểu
số từng du canh du cư biết rơ về các loài vật
hoang dă giúp đỡ diệt trừ. Câu chuyện phản ảnh
những khó khăn buổi ban đầu khẩn hoang lập
làng, đồng thời phản ảnh t́nh tương thân
tương trợ, giúp nhau xây dựng cuộc sống giữa
các sắc tộc gần gũi trong một địa bàn.
Để chống lại
hùm thiêng sấu dữ, giúp dân
an cư triều đ́nh nhà Nguyễn đă cho lập các
đội săn bắn, chọn các tay thiện xạ
trong biền binh đến các tỉnh Phú Yên, Khánh Ḥa, B́nh
Thuận phối hợp với địa phương
đi tiễu trừ ác thú. Giết một con cọp
được thưởng 15 quan, sau tăng lên 30 quan. Nếu
toàn bắn sẩy th́ chiếu theo số đạn đă
lănh mà phạt. Từ năm 1824 theo lời tâu của Trấn
thần Phú Yên sông Bàn Thạch có nhiều cá sấu lớn,
hại dân không khác ǵ cọp, nên có lệ ban ra ai giết
được một con cá sấu cũng được
thưởng như giết một con cọp.
Niềm vui lớn của người đi khẩn
hoang miền rừng núi
Có thể nghĩ rằng
điệu dân ca bài cḥi và việc tổ chức đánh bài
cḥi là do những người dân đi khẩn hoang miền
rừng núi sáng tạo ra. Ư nghĩ này đầy đủ
chứng lư thuyết phục.
Quan sát
đồng ruộng vùng rừng núi và kế cận chân núi ở
Phú Yên thấy có điểm chung là đồng ruộng nằm
dưới thung lũng, hai bên là sườn đồi c̣n
nguyên cây cỏ tranh đế, nơi ác thú và dă thú sinh sống,
ẩn nấp. Những khi phải ở lại đêm
để sáng ngày làm việc sớm, hoặc là cần canh
giữ hoa màu không cho nai heo ăn phá, người ta dựng
những cḥi cao dọc theo giữa chân đồi và bờ
ruộng, cḥi này cách cḥi kia một khoảng xa vừa đủ
nghe khi nói lớn. Buổi tối, không khí núi rừng vắng
vẻ, lạnh lẽo, người ta gọi nhau nói chuyện,
rồi bày ra câu đố để thử tài nhau, một
cách giải trí chống cơn buồn ngủ, rồi kể
cho nhau nghe những chuyện vui buồn hoặc bày tỏ nỗi
ḷng, dần dần h́nh thành một điệu hát
đơn giản, không cần nhạc cụ phụ họa,
chỉ nhịp lên cột cḥi, sàn cḥi là được.
Điệu bài cḥi ra đời. Tiến lên một bước,
câu đố đặt theo thơ lục bát hay lục bát
biến thức, thành câu thai, ngồi trên cḥi hát đố
nhau. Tiền thân của hội đánh bài cḥi là như vậy.
Sau này, đi sâu vào đời sống văn hóa thôn quê,
điệu bài cḥi mới thêm đờn kèn ḥa âm và cuộc
đánh bài cḥi thêm những con bài có tên gọi riêng, có anh hiệu
hô xướng, có ban nhạc, có làng xă… nhưng cái cốt
lơi vẫn phải giữ nét nguyên thủy là phải có cḥi,
người đánh bài cḥi ngồi trên cḥi. Đôi khi v́ thiếu
điều kiện, để giản tiện người
ta dùng một cái ghế cho người ngồi đánh bài
cḥi, gọi là “bài cḥi đẩu”
(đẩu=ghế). Thế nhưng bài cḥi đẩu không đáng mặt bài cḥi, ba tiếng
bài cḥi đẩu cho thấy đây là loại bài cḥi thứ
cấp.
Như vậy điệu
bài cḥi và việc đánh bài cḥi là sản phẩm văn hóa
hoàn toàn của dân gian. Những người nông dân đi khẩn
hoang bước đầu đă góp công không nhỏ tạo
ra nó và lưu trữ vào kho tàng văn hóa dân tộc, nó mộc
mạc, nôm na, đơn giản nhưng thật gần gũi
và thật dễ thương.
Kết quả của công cuộc khẩn hoang
Biết bao nhiêu công sức,
mồ hôi, nước mắt, và máu nữa, của bao nhiêu
thế hệ khẩn hoang đổ xuống để quê
ta có những cánh đồng rộng răi vào bậc nhất
Nam Trung Bộ. Ở Phú Yên không có từ “nương” mà phân
biệt chính là “ruộng” và “đất” với khái niệm
cơ bản do nguồn nước tưới.
Ruộng là nơi ít nhất
một năm có một vụ có nước, do nước
mưa đọng lại hoặc nước sông suối hồ
ao dẫn vào, chủ yếu là trồng lúa bằng cách cấy
hoặc gieo sạ, suốt trong thời kỳ trồng trọt
vào những lúc hoa màu cần nước th́ nơi này phải
có nước.
Đất (có khi gọi
là thổ, có khi gọi đất thổ) là nơi quanh
năm không có nước, nước mưa không đọng
lại, chủ yếu là trồng các loại hoa màu phụ,
thổ sản, rau dưa, thỉnh thoảng mới trồng
lúa. C̣n phân biệt: thổ cát, ở gần sông th́ nhiều
phù sa, gần chân núi th́ mùa mưa nhiều cây lá mục bồi
thêm, và thổ thịt c̣n gọi là đất trân, ở
vùng cao nguyên, xốp nát nhờ mưa nhiều thoáng gió.
Soi, băi là h́nh thức giữa
ruộng và đất, nhưng gần với đất
hơn, nằm giữa hai ḍng sông hay gần bờ sông, mùa
mưa lụt bị ngập nước không trồng trọt
được, phù sa lắng đọng bồi đắp
thêm màu mỡ, mùa hè khi trồng trọt diện tích soi băi rộng
ra v́ ḷng sông hẹp lại.
Rẫy là đất ở
sườn đồi núi mới khai phá, thường có
độ dốc, trồng trọt một vài vụ sẽ
để cho trở lại rừng, những nơi bằng
phẳng ở chân núi có thể sẽ thành đất thổ.
Ở Phú Yên “ruộng - thổ
- rẫy” gần nhau, xen nhau, không tạo thành từng miệt
riêng như ở Nam Bộ (miệt vườn, miệt ruộng,
miệt rừng…)
Việc
phân loại ruộng có hai cách: theo nguồn nước và
theo địa thế.
Theo nguồn nước
có thể chia ra:
- Ruộng
ăn nước trời tức là nước mưa đổ
trực tiếp xuống ruộng,
- Ruộng ăn nước
tưới là nước do con người dẫn từ
sông suối hồ ao lên ruộng khi cần.
Theo địa thế th́
có:
- Ruộng rộc (thảo
điền) có nước quanh năm, làm được mỗi
năm ít nhất hai vụ.
- Ruộng g̣ (sơn điền)
mỗi năm chỉ một mùa có nước, trồng lúa
một vụ, vụ kia bỏ không hoặc trồng màu
như đất thổ. Hai loại ruộng này ở các
đồng bằng châu thổ và thung lũng.
- Ruộng bắc thang (bậc
thang) chính giữa là ruộng rộc, hai bên hoặc một
bên là ruộng g̣, trên nữa là đất thổ, dễ thấy
ở Sông Cầu theo quốc lộ 1A, ở Tuy An vùng An Ḥa, và nhiều nơi trong
các thung lũng các huyện Sơn Ḥa, Đồng Xuân.
Theo chất đất c̣n
phân biệt: ruộng thịt, đất da tây màu nâu sẫm,
giữ nước được lâu và ruộng cát, c̣n gọi
là cát phèn hay cát nhớt, lúc hơi ít nước trên mặt
có đóng một lớp rong màu xanh thẫm.
Số lượng ruộng
đất tại Phú Yên theo các tư liệu cũ có sự
chênh lệch khá nhiều giữa Lê Quư Đôn và các sử
quan Quốc sử quán nhà Nguyễn.
Trong “Phủ biên tạp
lục” Lê Quư Đôn trích dẫn sổ sách của chúa
Nguyễn từ năm 1764 đến năm 1767 phủ Phú
Yên ruộng thực trưng là 128.940 mẫu.
Đầu nhà Nguyễn thời
điểm lập địa bạ từ năm 1815 đến
năm 1831 diện tích ruộng đất toàn trấn (phủ)
Phú Yên là 37.540 mẫu, trong đó diện tích ruộng đất
sử dụng chỉ có 17.800 mẫu.
Theo “Đại Nam nhất
thống chí” và “Đại Nam thực lục chính biên”:
năm 1815 có 27.963 mẫu, năm 1831 có 42.445 mẫu, năm
1899 có 72.266 mẫu.
Có thể đơn vị
mẫu thời chúa và thời vua khác nhau chăng? Cũng
như những đơn vị đong lường thược,
khuê, thăng, hộc… mỗi thời có khác nhau…
Từ hôm nay nh́n lại ngày xưa
Theo thống kê vào những
năm cuối thế kỉ 20 toàn tỉnh Phú Yên có 124.815 ha
diện tích đất nông nghiệp trong tổng diện
tích tự nhiên là 505.400 ha. Trong diện tích đất nông
nghiệp th́ có 32.710 ha đất ruộng trồng lúa trồng
màu, 30.971 ha đất nương rẫy.
Hôm nay chúng ta đi trên
đường thiên lư từ Cù Mông vào Đèo Cả, trên các
ngả đường hướng Tây, Tây Bắc, Tây Nam,
lên Vân Ḥa, Củng Sơn, Đồng Xuân, Sông Hinh… đâu
đâu cũng thấy bát ngát một màu ruộng đồng
đất thổ…Đó là Bà Đài, Bà Diễn, Bà Nông ngày
xưa, đó là trên tự nguồn di dưới đến
hải khẩu… Nhưng chúng ta không thể phân biệt
được đâu là khu vực những lưu dân do
Lương Văn Chánh hướng dẫn khẩn hoang theo
vết dầu loang mỗi ngày một mở rộng,
đâu là khu vực những người gốc ở
Đàng Ngoài thất trận phải làm tù binh, phải
cưỡng bách rời bỏ bản quán, đâu là vùng các
tù phạm được tha, các toán dân Nam Kỳ mộ nghĩa
lập thành đồn điền bị Pháp nghi ngờ phải
ra lập nghiệp nơi này và đâu là vùng do chính quyền
sở tại như Thự đốc Tôn Thất Lang chủ
trương khai thác. Tất cả công lao của bao lớp
tiền nhân đă ḥa quyện vào nhau trong màu xanh của lúa
non, màu vàng của lúa chín, trong mùi ngây ngất của những
trái đỗ già nứt vỏ, những thân bắp ră mục
đổ xuống để có được một Phú
Yên như ước vọng của chúa Tiên.
Bằng thơ, nhà văn
Sơn
VIỆC LẬP LÀNG
Những người đi tiên phong
Khẩn hoang và lập làng
là hai việc đồng thời. Những toán lưu dân sau
khi dừng chân tại nơi được chỉ định,
đặt hành trang xuống, công việc trước hết
là dựng lều trại để che mưa nắng có
nơi ăn ở. Đó là những mái nhà đầu tiên của
họ, năm, bảy, mươi nhà hay hơn quần
cư bên nhau, đó là làng xóm đầu tiên của họ.
Người phụ trách toán lưu dân đương nhiên
thành người chủ tŕ làng xóm, có thể được
gắn một chức vụ ǵ đó, có thể chưa có
chức vụ chính thức, nhưng vai tṛ chỉ huy
được mặc nhiên công nhận. Người này, về
sau có thể được suy tôn là Tiền hiền.
Những đợt
lưu dân cũng là những đợt lập làng. Một
số làng có ngay từ thời Lương Văn Chánh từ
năm 1597. Những làng khác lần lượt được
lập do những làng này tách ra, những tù binh của chúa
Trịnh, những người dân xứ Nghệ bị
cưỡng bách vào
Việc lập làng: đồng loạt ban đầu
– bổ sung về sau
Nhiệm vụ của
Lương Văn Chánh là khẩn hoang lập làng khắp
nơi, từ đầu nguồn tới cửa biển,
không riêng vùng đồng bằng châu thổ, mà ở biên giới
phía nam, phía tây cần phải có dân, cần phải ổn
định để làm phên giậu che chắn cho trung châu,
như vậy vùng Thạch Lănh (Phước Lănh, Đồng
Xuân), Vân Ḥa, Phước Sơn (Củng Sơn, Sơn Ḥa) cũng
phải định h́nh ngay từ năm 1597. Vào thời kỳ
Lương Văn Chánh làng xóm ở Phú Yên có thể c̣n
thưa thớt nhưng phải rải đều khắp
lănh thổ. Các đợt lập làng tiếp theo là xen kẽ
vào những nơi đất rộng người ít theo chỉ
định của địa phương để điều
ḥa phần nào mật độ dân số tạo thuận lợi
cho việc sản xuất cũng như bảo đảm
an ninh trật tự.
Nh́n vào tên làng xóm có thể
suy ra việc thành lập ban đầu quy tụ dân chúng có hai
cách. Một là theo quy hoạch chung của nhà nước,
làng ấy được đặt tên bằng chữ Hán
có ư nghĩa thể hiện một ước mong, như An
Thuyên, An Thạnh, Phước An… hoặc phản ảnh thực
trạng địa dư theo sông núi, sản vật tại
chỗ, như Liên Tŕ có bàu sen, Diêm Điền có ruộng muối,
Đa Ngư có nhiều cá… Hai là do dân chúng tự phát, thấy
nơi làm ăn được rủ nhau đến đó
khai khẩn, lập thành làng xóm, gọi bằng cái tên nôm na,
về sau được nhà nước công nhận đổi
thành tên chữ Hán. Như làng Phú Tân tên xưa là Quán Mới,
có thể ban đầu tại đây một nếp quán mới
lập, nhiều người thấy sinh sống được
cùng tụ về, rồi khi nói với nhau người ta gọi
chỗ ấy là Quán Mới, đến năm 1832 đổi
thành Phú Tân. Hoặc làng Ngân Điền tên xưa là Đồng
Bạc, có thể ban đầu người ta rủ nhau
đến đây canh tác, cánh đồng này cho họ hoa lợi,
từ hoa lợi ấy họ bán đổi thu lại bạc,
họ gọi là xứ Đồng Bạc, sau làng xóm
được nhà nước công nhận, chuyển sang chữ
Hán thành Ngân Điền. Cách đặt tên làng này c̣n gợi
ư cho thấy sự đánh giá thực tế khá trung thực.
Cánh đồng này mới ở mức “đồng bạc”,
chưa phải là “đồng vàng”, là “ngân điền”
chưa phải là “kim điền”. Về sau gần Ngân
Điền lập thêm các làng Thuận Điền, Phú
Điền.
Một trường hợp
làng xóm phát sinh nữa giống như cỏ lan, cây nhảy,
hoa bay, trái rụng là khi nơi ấy đă thành trù phú
người đông đất ít, không đủ ruộng
vườn sản xuất, một số kéo đi chỗ
khác lập thành thôn xóm mới. Cỏ th́ lan chung quanh, cây th́
nhảy có cách quăng một chút, c̣n như hoa bay trái rụng
theo gió thổi th́ nhiều khi xa lắm. Khi đặt tên
cho vùng đất mới này, dẫu rất xa người
ta giữ lại một phần tên cũ như là chút kỉ
niệm thiêng liêng. Những người ở Định
Trung (Tuy An) lên cao nguyên lập ra trên đất làng Vân Ḥa
(nơi không có người ở) một ấp đặt
tên là Trung Trinh, những người ở Định Phong
(Tuy An) cũng lên đây lập ra ấp Phong Cao, hai ấp
này vẫn trực thuộc làng gốc Định Trung,
Định Phong cho đến khi huyện Sơn Ḥa thành lập
nâng lên thành hai làng Trung Trinh và Phong Cao thuộc tổng
Sơn Xuân huyện Sơn Ḥa.
Việc thờ kính
Ngay từ buổi đầu
khai hoang cho đến khi ruộng đất vườn
tược nhà cửa đă có, làng xóm đông đảo,
khi gặp thuận lợi, lúc gặp khó khăn, vui buồn
sướng khổ lẫn lộn, người ta vừa tự
tin vào bản thân, vào tinh thần cộng đồng, vừa
hướng đến cơi tâm linh siêu h́nh mong nhờ sự
giúp đỡ, nên mỗi làng đều có các cơ sở
tín ngưỡng. Người ta lập ra đ́nh, miếu,
về sau có chùa, am, nhà thờ… Các thần linh được
thờ cúng có vị nguyên đă được thờ kính từ
nơi quê hương gốc gác của lưu dân, có vị
do sự hiển linh tại chỗ. Tùy vùng miền, tùy nghề
nghiệp dân chúng ở gần núi thờ sơn thần, gần
sông thờ thủy quan, gần biển thờ ông Nam Hải.
Dần dần công nghiệp hộ quốc an dân của các
vị thần được
tŕnh lên triều đ́nh để vua phong theo thứ bậc:
thượng đẳng thần, trung đẳng thần,
hạ đẳng thần. Nh́n chung th́ ở Phú Yên thờ
các vị sau đây:
- Pḥ Quận công
Lương Văn Chánh, người có công khai mở đất
Phú Yên,
- Thiên Y A Na, vị nữ
thần
- Đương cảnh
thành hoàng là vị thành hoàng của từng xứ, từng
nơi,
- Các vị tiền hiền,
hậu hiền có công lập ra làng xóm.
Ở Phú Yên không thấy
có những người xấu (như ăn trộm, ăn
mày…) bất đắc kỳ tử hiển linh thành thần.
Hàng năm có hai dịp
cúng tế vào mùa xuân và mùa thu cầu an cho làng xóm, các dịp
này cũng như tết Nguyên Đán có lễ rước
long trọng sắc phong của các vị trên từ miễu
về đ́nh cúng tế, sau khi xong việc đưa trở
lại nơi thờ.
Hai tôn giáo lớn ở Phú
Yên là Phật giáo và Thiên chúa giáo. Và định điểm
ban đầu đều trong vùng châu thổ Sông Cái, tức
là vùng Bà Đài xưa, lị sở, trung tâm của Phú Yên thời
mở cơi. Phật giáo đến Phú Yên cùng lúc với những
lưu dân người Việt. Chùa chiền rải rác khắp
nơi. Nhiều ngôi chùa được khai sơn rất sớm,
như chùa Hội Tôn từ thế kỉ thứ 17. Lúc c̣n
niên thiếu Thiền sư Liễu Quán xuất gia vào
đây tu học với Thiền sư Tế Viên. Thiên chúa
giáo đến Phú Yên từ thời Phó tướng Nguyễn
Phước Vinh làm Trấn thủ. Tuy không đông đảo
tín đồ bằng Phật giáo, Thiên chúa giáo cũng có mặt
khắp nơi, tổ chức giáo dân chặt chẽ
hơn. Nhà thờ Mằng Lăng được xây dựng
năm 1892. Những vùng xa như Trà Kê (Sơn Ḥa), Đồng
Tre (Đồng Xuân) cũng có nhà thờ.
Ảnh hưởng, giao thoa phong tục tập
quán
Trong các châu thổ và duyên
hải chỉ có người Việt (Kinh) nhưng trên vùng
núi, cao nguyên có sự tiếp cận với các thành phần
sắc tộc khác như người Chăm, người
Êđê, người Bana, có nền văn hóa cơ bản
khác nhau. Kết quả của sự giao thoa qua thời gian
là tạo ra ảnh hưởng lẫn nhau trong phong tục
tập quán.
Tại đồng bằng
Tuy Ḥa, có tục cúng đất vào ngày 18 tháng 3 âm lịch. Những
nông dân người Việt tin tưởng rằng những
đất đai họ đang sinh sống, những ruộng
đồng họ đang canh tác vẫn c̣n thuộc quyền
sở hữu các âm chủ, cho nên để tránh t́nh trạng
tranh chấp, quấy phá, người đang sử dụng
phải, trả bằng vàng mă và lễ vật dâng cúng, hai
bên cam kết rơ ràng có sự kiểm soát của Ngọc
Hoàng cùng các vị Hành khiển chứng kiến, đọc
trong lễ cúng và đốt
chuyển xuống âm phủ. Lễ tá thổ có thể
tổ chức hàng năm hoặc
ba năm, năm năm tùy theo giao kèo giữa âm chủ và
dương tá, với quy mô lớn cho cả làng, cả xóm
hay một xứ đồng th́ nhiều nghi thức và lễ
vật, trong phạm vi gia đ́nh th́ gà vịt chè xôi. Đây
là một h́nh thức người Việt ghi nhớ công lao
khai khẩn ruộng vườn cho ta thụ hưởng.
Những nơi xa đồng bằng Tuy Ḥa, lễ cúng
đất mang ư nghĩa là lễ cúng tạ ơn đất
nước ông bà đă phù hộ cho mùa màng sung túc, cây già trái
chín tốt đẹp.
Tại Sơn Ḥa, Đồng
Xuân một số dụng cụ gia đ́nh của người
Việt bắt chước theo đồng bào các dân tộc
thiểu số, thể hiện rơ ràng nhất là cái gùi, có
thay đổi phần nào về h́nh thức cho tiện lợi
hơn. Cái gùi của đồng bào thiểu số nhỏ,
chứa một trọng lượng nhẹ, mang gọn
trên lưng để dễ dàng đi xa và đi cả ngày
trong rẫy rừng. Cái gùi của người Kinh miệng
rộng hơn để dễ dàng đổ vào, sắp
vào và lấy ra, dùng mang lúa bắp, nông sản, thuốc lá… từ
ruộng đất về nhà, thậm chí c̣n dùng mang củi,
đi bắt cá sông suối, đi hái trái rừng, đi chợ…
nên nhiều loại lớn nhỏ khác nhau. Loại gùi lớn
chứa đến vài ba giạ lúa.
Tại thị trấn Củng
Sơn trước đây có tục không đào giếng mà
chỉ dùng nước sông. Từ ăn uống, tắm rửa,
giặt giũ đều dùng nước sông. Trong công
đường quan Tri huyện cũng không có giếng.
Người ta gánh đôi ṿ hay đôi thùng xuống sông Ba nhận
xuống cho nước vô đầy tràn gánh về dùng. Phía
trên có người đang tắm, phía bờ có người
đang giặt, không sao cả! Mùa nắng ra giữa sông,
nước trong tốt, mùa mưa lụt đứng gần
bờ, nước đục ngàu bèo bọt vẫn cứ
dùng, một đôi nhà dùng phèn chua lắng cho trong c̣n đa số
cứ để như thế, tự nhiên. Hỏi tại
sao không đào giếng th́ được nghe trả lời
là không dám, kiêng, sợ. Kiêng việc ǵ, sợ ai, không biết,
xưa sao nay vậy. Ngày trước tại đây là bảo
Phước Sơn, một căn cứ biên pḥng, cũng là
nơi các sứ bộ Thủy Xá, Hỏa Xá dừng chân
trước khi xuống tỉnh thành tiến cống. Phải
chăng tập tục này bắt chước việc uống
nước suối của đồng bào thiểu số,
họ sống theo bến nước, dùng nước sông
suối, không đào giếng, cho rằng nước sông suối
chảy luôn nên sạch và hiền, nước giếng
đọng một chỗ nên dơ và độc. Suốt
các thế kỉ 17, 18, 19 Củng Sơn không có giếng
nước. Đến đầu thế kỉ 20 một
vài nhà đào giếng, mà phải là người chức quyền,
giàu có, hiểu biết như ông Hội Năm (Hội viên
tỉnh hạt), ông Ta Cô (Hoa kiều), ông Trợ Tư, ông
Giáo Luân (2 vị Hiệu trưởng trường Củng
Sơn). Từ nửa sau thế kỉ 20 nhiều gia
đ́nh ở Củng Sơn theo nhau đào giếng.
Tiến tŕnh phát triển làng xóm
- Buổi sơ khai mờ
mịt:
Năm 1597 Lương
Văn Chánh đưa lưu dân vào khai khẩn. Lịch sử
chỉ ghi vắn tắt và đơn giản như vậy.
Vùng đất này lệ vào huyện Tuy Viễn trong Quảng
Nam Thừa Tuyên, không biết mang tên ǵ và tổ chức hành
chính ra sao, đơn vị cơ sở, đơn vị
trung gian chuyển tiếp thế nào, các chức vụ nhà
nước ở mỗi cấp đều chẳng thấy
đề cập. Năm 1611 phủ Phú Yên được
thành lập gồm 2 huyện Đồng Xuân và Tuy Ḥa, chức
vụ đứng đầu phủ là Lưu thủ. Lịch
sử cũng chỉ chép chừng đó, chức vụ
đầu huyện là ǵ, dưới huyện là cấp ǵ cũng
chẳng thấy đề cập.
- Các thuộc ban đầu:
Đến năm 1720 Quốc
chúa Nguyễn Phước Chu sai Văn chức là Diên Tường
nam Nguyễn Khoa Đăng vào chia lập các ấp các thuộc
ở Quảng Ngăi và Phú Yên. Ấp và thuộc là những
đơn vị cấp nào, sách “Thực lục tiền
biên” không nói.
Năm 1726 chúa Ninh Nguyễn
Phước Trú sai Kư lục Chính dinh (Phú Xuân) là Nguyễn
Đăng Đệ đi tuần xét các phủ, định
rơ chức lệ cho các thuộc mới lập. Phủ Phú
Yên có 38 thuộc. Mỗi thuộc đều lấy những
thôn, phường, nậu, man lẻ tẻ họp lại.
Đoạn này (cũng trong sách “Thực lục tiền
biên”) cho thấy thuộc là đơn vị dưới
huyện và thuộc chia ra thôn, phường, nậu, man.
Nhưng chỗ không rơ ràng là phủ Phú Yên chỉ có 38 thuộc
hay 38 thuộc này là những thuộc mới lập, và công
việc của Nguyễn Đăng Đệ khi kinh lư là
định rơ chức lệ cho các thuộc ấy. Cũng
không biết được mỗi huyện có bao nhiêu thuộc.
Bây giờ chúa cho chiếu
theo hộ tịch nhiều ít, thuộc có 500 người trở
lên th́ đặt một người Cai thuộc, một
người Kư thuộc, 450 người trở xuống th́
đặt một người Kư thuộc, 100 người
trở xuống th́ đặt một Tướng thần.
Qua chi tiết này có thể đặt câu hỏi: Vậy th́
thuộc có từ 451 người đến 499 người
đặt chức ǵ. Phải chăng nói chính xác hơn là
“thuộc dưới 500 người trở xuống th́
đặt một Kư thuộc” ?
- Các cấp dưới trấn
đời Gia Long: huyện – tổng – thuộc:
Năm 1815
khi lập địa bạ trấn Phú Yên th́ các đơn
vị hành chính như sau: Trấn Phú Yên có 2 huyện là huyện
Đồng Xuân và huyện Tuy Ḥa. Dưới mỗi huyện
có 3 tổng và 1 thuộc. Các tổng không có tên riêng mà gọi
là hạ, thượng, trung kèm theo tên huyện. Các thuộc
Hà Bạc gồm những thôn phường ở nơi bến
sông cửa biển cũng gọi kèm theo tên huyện. Cụ
thể những nơi có lập địa bạ:
Huyện Đồng Xuân:
tổng Hạ có 24 làng (7 xă, 17 thôn), tổng Thượng có
23 làng (9 xă, 12 thôn, 1 giáp), tổng Trung có 33 làng (10 xă, 19 thôn, 3
giáp, 1 phường), thuộc Hà Bạc có 28 làng (24 thôn, 3 ấp,
1 phường).
Huyện Tuy Ḥa: tổng Hạ có 22 làng (4 xă, 18
thôn), tổng Thượng có 18 làng (3 xă, 14 thôn, 1 ấp), tổng
Trung có 23 làng (4 xă, 17 thôn, 1 phường, 1 châu), thuộc Hà Bạc
có 5 làng (1 xă, 3 thôn, 1 phường).
(Trích theo
Nguyễn Đ́nh Đầu trong sách “Nghiên cứu địa
bạ…Phú Yên”, từ “làng” ở đây là để chỉ
chung các đơn vị hành chính cơ sở có tư cách
pháp nhân, gồm cả xă, thôn, phường, ấp, châu…).
- Năm 1832 chia lại
đơn vị hành chính trong nước, phủ Phú Yên
được thăng thành tỉnh, vẫn giữ 2 huyện
Đồng Xuân và Tuy Ḥa, có điều chỉnh ranh giới,
các thuộc Hà Bạc giải thể, dưới cấp
huyện là tổng, dưới cấp tổng thống nhất
là làng (không c̣n xă, thôn, phường, châu…) đều có tên
riêng. Huyện Đồng Xuân có 3 tổng: tổng Xuân
Đài 19 làng, tổng Xuân Sơn 25 làng và tổng Xuân Vinh 29
làng. Huyện Tuy Ḥa có 4 tổng: tổng Ḥa B́nh có 31 làng, tổng
Ḥa Mỹ có 15 làng, tổng Ḥa Lạc có 22 làng, tổng Ḥa
Đa có 24 làng. Ba tổng Ḥa Mỹ, Ḥa Lạc, Ḥa Đa nằm
phía
Ngày nay,
phường là một cấp của thành phố, thị
xă, quan trọng hơn xă, thôn, nhưng ngày xưa phường
là đơn vị nhỏ ngang với thôn, nậu, hoặc
là một tập họp những người cùng nghề
(như Phường Câu, Phường Củi…), cho nên có nhiều
nơi ban đầu là phường sau mới nâng lên làng,
như làng Vân Ḥa nguyên là phường Vân Khương rồi
phường Ḥa Linh, làng Xuân Sơn nguyên là phường An
Sơn, làng Nhiễu Giang nguyên là phường Sông Nhiễu…
Lại nhiều nơi trước khi thành làng phải qua
giai đoạn “thôn tân lập” như làng Phú Thường
nguyên là thôn tân lập An Thạnh, làng Lương Sơn
nguyên là thôn tân lập Lương Sơn v.v…
Lần này tên làng đều
dùng chữ Hán, hai từ ngắn gọn, đủ nghĩa,
các tên nôm, các tên dài ḍng đều thay đổi. Như: Quán
Mới đổi thành Phú Tân, Đá Bạc đổi thành
Cẩm Thạch, Đồng Bạc đổi thành Ngân
Điền, Định An Tây Hà Nhiễu đổi thành Hà
B́nh, Mạn Đ̣ phụ lũy đổi thành Tiên Châu,
Phước Thạnh Thái B́nh đổi thành Phước Thạnh
v.v… Chỉ có một trường hợp tên làng 3 từ,
đó là thôn Kỳ Tấu Hà Lăng và thôn tân lập An Hội
nhập thành làng Hiệp Thạnh Hội, rồi sau cũng
bỏ từ Hiệp c̣n lại làng Thạnh Hội.
Điều đáng lưu
ư: làng là đơn vị hành chính cơ sở, có tư cách
pháp nhân, có ngân sách riêng, có những tục lệ riêng như
câu “phép vua thua lệ làng”, có nơi có hương ước,
trên nguyên tắc người đứng đầu bộ
máy điều hành do dân cử, nhưng ở Phú Yên dùng nhiều
danh từ khác nhau. Thông thường gọi là làng, văn tự
quốc ngữ viết là làng, nhưng văn tự chữ
Hán và trong con dấu chữ Hán viết là thôn. Ví dụ, khi
nói và viết quốc ngữ th́ dùng : Làng Vân Ḥa, nhưng viết
chữ Hán và trong con dấu th́: Vân Ḥa thôn. Nhưng chức
danh chính thức người đứng đầu làng là
Lư trưởng, không phải Thôn trưởng, dân gian lại
ít khi gọi là ông Lư, thường gọi là ông Xă.
Cuối thế kỉ 19 một
lần điều chỉnh ranh giới nữa, huyện
Tuy Ḥa thăng thành phủ, huyện Đồng Xuân thu hẹp,
lập phủ Tuy An và huyện Sơn Ḥa. Lúc này phủ Tuy
Ḥa có 6 tổng (sang đầu thế kỉ 20 có 7 tổng),
phủ Tuy An có 5 tổng, huyện Sơn Ḥa có 4 tổng, huyện
Đồng Xuân có 3 tổng, nhiều làng mới được
lập thêm, toàn tỉnh có tất cả 269 làng.
Dân số
Xin hăy h́nh dung và phỏng
tính… vào ngày Lương Văn Chánh nhận lệnh
đưa dân vào, nơi này có được bao nhiêu người?
Kể cả những người dắt trâu ḅ, mang nông cụ
theo sau vó ngựa Phù Già, kể cả những người
từ lâu năm định trú từ Cù Mông đến Bà
Nông nay ở lại chung sống. Thật là khó! Âu đành
chào thua khuyết sử.
Theo sách “Phủ biên tạp
lục” của Lê Quư Đôn: năm 1753 dân 5 phủ trong xứ
Quảng Nam có 152.370 người, trong đó dân phủ Phú Yên
là 14.648 người. Hẳn đây là con số cụ lấy
trong hồ sơ lưu trữ của chúa Nguyễn khi cụ
theo Hoàng Ngũ Phúc vào làm Hiệp trấn Tham tán quân cơ phủ
Thuận Hóa.
Dưới
triều Nguyễn theo sách “Đại Nam nhất thống
chí” dân đinh Phú Yên năm 1819: 7.571 người, năm
1848: 7.806 người, năm 1898: 9.368 người, năm
1899: 10.465 người (đầu thế kỉ 20: 12.554
người). Thống kê ngày xưa chỉ tính số dân
đinh, c̣n những hạng lăo nhiêu, bần dân, tật nguyền,
vị thành niên, phụ nữ… miễn thuế đinh th́
không kể. Trong vùng châu thổ Tuy An dân đông hơn cả,
những làng có số suất đinh cao nhất tỉnh
đều ở đây như Định Phong, Mỹ Thạnh,
Ngân Sơn… Sau đó đến vùng huyện Sông Cầu, và
vùng chung quanh thành phố Tuy Ḥa hiện nay. Đinh số thấp
nhất là vùng phía Tây huyện Tây Ḥa ngày nay.
Khái niệm Làng/Xóm và ư thức cộng đồng
Cho đến tháng 8/1945
huyện và tổng chỉ là cấp trung gian có nhiệm vụ
chuyển tiếp lệnh trên và đôn đốc cấp
dưới, làng là đơn vị hành chính cơ sở. Mỗi
làng tùy nơi, chia ra ấp hoặc lư, giáp… nhưng trong dân
gian gọi chung là xóm. Lư, ấp, giáp có khi đặt tên bằng
chữ Hán, có khi đặt tên theo vị trí trong làng, đồng
thời c̣n có tên xóm nôm na mà mọi người vẫn quen gọi
hơn. Như làng Phong Niên có ấp Phong Phú, Phong Hậu… Ấp
Phong Phú có bến đ̣ nên c̣n gọi là xóm Bến Đ̣, lại
c̣n gọi là xóm Phan v́ ở đây hầu hết trong ḍng họ
Phan, chỉ vài ba gia đ́nh họ khác. Ấp Phong Hậu có
đ́nh làng gọi là xóm Đ́nh. Làng Củng Sơn có Tây lư,
Đông lư, Bắc lư, Trung lư, người dân gọi là xóm
Tây, xóm Vườn (Đông lư nhiều vườn trái cây),
xóm Bắc và xóm Huyện (công đường huyện
đóng tại Trung lư). Làng Vĩnh Phú có xóm Đông, xóm Tây,
xóm Trung, xóm
Như vậy
dù là lư, ấp, giáp… trong khái niệm dân gian đều coi
đó là xóm. Từ xưa hai tiếng Làng/Xóm đă gắn bó
chặt chẽ với nhau. Có làng th́ tất nhiên là có xóm, và
ngược lại có xóm mới thành làng. Làng mà không có xóm
th́ không phải là một làng đúng nghĩa. Những
người dân trong làng thường có ư thức cộng
đồng rất mạnh, cùng nhau góp công góp sức xây dựng
làng, sự ganh đua với các làng khác là sự ganh đua
có tính hơn kém, được thua với tinh thần tự
trọng và tự ái cao. Giữa xóm này xóm khác cũng có ganh
đua nhưng khác hẳn, ganh đua trong t́nh thân thiện
đồng ḷng, mục đích làm sao làng ḿnh khá hơn hoặc
ít nhất là ngang bằng các làng lân cận. Cả những
khi nguy cấp như nhà cháy, bị cướp người
ta kêu cứu không kêu riêng mà kêu cả làng và xóm, tức là “la
làng xóm”. Phải nhận biết như thế mới thấy
được ư nghĩa sâu sắc của hai tiếng
Làng/Xóm, vai tṛ của xóm trong làng, của làng với xóm.
Ngày nay xă là
đơn vị hành chính cấp cơ sở, các làng không
c̣n, cấp này biến thành thôn, trực thuộc xă, do đó
vai tṛ của làng bị mất, có khi mất cả tên, gọi
bằng số như thôn 1, thôn 2, thôn 3 v.v... Các xă th́ dù gần
đây đă chia nhỏ vẫn c̣n lớn rộng, người
dân trong xă đối xử với nhau không đủ sự
thân thiết gần gũi đùm bọc nhau bằng t́nh mà
chỉ là nghĩa vụ công dân bằng lư.
Vẫn biết rằng
làng và thôn có nghĩa tương đương, làng dùng
trong văn tự quốc ngữ, thôn dùng trong văn tự
chữ Hán, nhưng luôn luôn nói đến thôn người ta
nghĩ đến việc chính quyền, việc hành chính,
nói đến làng người ta nghĩ đến việc
của dân. Người ta nói đ́nh làng, lẫm làng, chùa
làng, ruộng làng, đất làng, rộc làng, tre làng… một
cách tha thiết mà không nói đến thôn. Bài thơ, câu hát cũng
vậy, hai tiếng làng ta, làng tôi vốn có cung bậc êm
đềm nhẹ nhàng như
thơ như nhạc.
Có phải là trong đó ẩn
chứa cả hồn thiêng sông núi, cả anh linh tiền
nhân từ thuở ban đầu mở cơi khẩn hoang lập
làng để đến bây giờ lớp lớp hậu bối
cảm nhận được “ngàn
thu sinh tử chung nhau, chung thương chung nhớ chung sầu
chung vui”. T́nh yêu thương làng xóm chính là cội nguồn
của t́nh yêu thương đất nước vậy!
Đôi lời của tác giả
“Việc khẩn hoang lập làng ở Phú Yên
trong các thế kỉ 17, 18, 19” là một
đề tài cần nhiều thời gian sưu tầm
nghiên cứu mới có thể tŕnh bày đầy đủ.
Rất tiếc v́ th́ giờ quá gấp gáp, tư liệu
không tập hợp kịp, quá ít, nên tác giả chỉ nêu ra
một số chi tiết c̣n rời rạc. Tác giả xin
chân thành cáo lỗi. Tuy vậy, hi vọng với những
chi tiết này quư vị có thể ngầm sắp xếp và
h́nh dung được nét khái quát của vấn đề.
Tác giả cũng mong muốn sẽ tiếp tục sưu
tầm nghiên cứu thêm để có thể sau này sẽ
hoàn thành một công tŕnh tương đối đầy
đủ ngơ hầu đáp ứng được phần
nào yêu cầu chung.
Tư liệu tham khảo chính:
- Đại
- Đại
- Đại
- Phủ biên tạp lục
* Lê Quư Đôn
- Tỉnh Phú Yên * A. Laborde
– tạp chí Đô thành hiếu cổ
- Báo cáo của Sở Thủy
nông Đông Dương v/v xây dựng đập Đồng
- Việt Nam sử lược
– quyển II * Trần Trọng Kim
- Chế độ ruộng
đất ở Việt
- Nghiên cứu địa
bạ triều Nguyễn – Phú Yên
* Nguyễn Đ́nh Đầu
- Việt Nam, quốc hiệu
và cương vực qua các thời đại * Nguyễn Đ́nh Đầu
- Phú Yên, miền đất
ước vọng * Trần
Huiền Ân
- Và một số tư liệu
ghi chép lưu trữ của tác giả…
PHÚ YÊN - ĐỊA LƯ HÀNH CHÍNH, THIẾT CHẾ
HÀNH CHÍNH QUA CÁC THỜI
KỲ
Vào nửa sau thế kỷ XV, cuộc
hành quân lớn của Vua Lê Thánh Tông vào cuối năm 1470 -
đầu năm 1471 đă đi đến việc sáp nhập
vùng đất từ Nam Hoá Châu đến đèo Cù Mông (bao
gồm cả Đại Chiêm và Cổ Lũy) vào lănh thổ
Đại Việt và sau đó lập thành đạo Thừa
Tuyên thứ 13: Quảng Nam.
Sau cuộc
Trong khoảng 100 năm kể
từ sau chuyến chinh
Năm Mậu Dần (1578),
Lương Văn Chánh tiến đến sông Đà Diễn,
Lương Văn Chánh chiêu tập dân Chiêm khai khẩn đất
hoang ở Cù Mông, Bà Đài, cho dân di cư đến đây.
Lại mộ dân khai hoang ở trên dưới triền sông
Đà Diễn, chia lập thôn ấp, ngày dần đông
đúc (Đại
Năm 1611, Nguyễn Hoàng lập thành 2
huyện Đồng Xuân và Tuy Hoà, đặt phủ Phú Yên
thuộc dinh Quảng Nam. Văn Phong được dùng làm
Lưu thủ (Đại
Từ đây xuất hiện những
địa danh hành chính tiếng Việt trên vùng đất
mới: Phú Yên, Đồng Xuân, Tuy Hoà. Dinh Quảng
Năm 1629, ”Đời
Chúa Phước Nguyên thứ 16, Văn Phong phản nghịch,
Chúa sai vơ tướng Nguyễn Vinh đánh dẹp rồi lập
dinh Trấn Biên sau gọi là dinh Phú Yên, đặt quan Trấn thủ, lại ở
theo những chỗ bờ biển đặt làm 38 thuộc”(Đại
Nam Nhất thống chí, Q.10, 11, Nxb Nha văn hoá SG, 1964).
Thuộc cũng như tổng, song nhà nước trực
trị, chưa để xă dân bầu cử cai tổng hay
phó tổng. Từ đây dinh
Trấn Biên cai quản phủ Phú Yên gồm 2 huyện Đồng
Xuân và Tuy Hoà, giữ một
vị trí quan trọng trong việc thống quản xứ
Nam Bàn gồm Thuỷ Xá, Hoả Xá và vùng thượng du, kiểm
soát và khai thác các đảo phía biển Đông, là tiền
đồn phía Nam của Chúa Nguyễn.
Khi Nguyễn Phúc Nguyên lên
nối nghiệp Nguyễn Hoàng, Phúc Nguyên thải hồi các
quan lại do nhà Lê cử, cải tổ bộ máy chính quyền,
các dinh đều có các ti: Ti Xá Sai (coi việc kiện tụng),
Ti Tướng Thần Lại (có nhiệm vụ thu thuế
trong dân và cấp lương bổng cho quan lại, binh
lính), Ti Lệnh Sử (trông coi về lễ nghi). Đến
đời Chúa Phúc Khoát, Phúc Khoát xưng Vương, thành lập
Triều đ́nh, đổi các chức Kư Lục, Nha Uư,
Đồ Tư, Cai Bạ làm Lại Bộ, Lễ Bộ,
H́nh Bộ, Hộ Bộ và đặt thêm 2 bộ: Binh và
Công, đặt Hàn Lâm Viện. Các dinh, trấn có Trấn thủ
đứng đầu, có 3 vị quan trợ lực gọi
là Cai bộ hay Tri bạ trông coi công việc thuế má, kho bạc,
Kư lục và Cai án trông coi việc h́nh án. Các viên chức làm việc
tại các Ty: Xá Sai, Lệnh Sử, Tướng Thần Lại
được gọi tên là: Câu Kê, Cai Hợp, Thủ Hợp
và Bản Ty Lại.
Thời các Chúa Nguyễn,
dinh quan Trấn Biên đặt tại thôn Hội Phú (thôn Hội
Phú sau này chia thành 2 thôn là Hội Phú và B́nh Thạnh, thành dinh
Trấn Biên nằm trên địa phận thôn B́nh Thạnh
nay là thôn 11, xă An Ninh Tây). Dinh này là một thành vuông, mỗi cạnh
300m, tường khá cao, xây bằng gạch nung và đá, nhân
dân gọi là Cổ thành. Thành dựng ở khúc ṿng cung sông
Phú Ngân (c̣n gọi là sông cây Dừa), một góc thành đă bị
ḍng sông đổi chiều xói lở cuốn trôi. Gần
thành có xóm Thành cũ, chợ Thành cũ. Phía ngoài cửa sông
chảy ra vịnh Xuân Đài c̣n có xóm Thủy; nơi đây
là căn cứ hải quân thuộc dinh Trấn Biên. Thành Hội
Phú dinh Trấn Biên được Phó tướng Nguyễn
Phúc Vinh xây dựng sau khi ông này vâng mệnh Chúa Nguyễn
đánh dẹp xong cuộc phản kháng của Lưu thủ
Văn Phong. Nguyễn Phúc Vinh nguyên họ Mạc, con Mạc
Cảnh Huống - Năm 1553 Nguyễn Hoàng vào Nam, trấn
thủ Thuận Hoá, Mạc Cảnh Huống đem gia quyến
đi theo, được Nguyễn Hoàng phong đến Thống
Binh, tham mưu trong màn trướng, giúp việc lúc khai quốc;
con Mạc Cảnh Huống là Mạc Kính Vinh lấy công chúa
Ngọc Liên, làm con rể Chúa Săi Nguyễn Phúc Nguyên
được cho theo quốc tính Nguyễn Phúc, sau đổi
làm Nguyễn Hữu, có công lớn được cho dùng ấn
son.
Lúc này,
theo qui chế hành chính chung của xứ Đàng Trong th́
dưới huyện là tổng, dưới tổng là xă,
dưới xă là thôn, làng; thuộc là đơn vị hành
chính dưới huyện, tương đương tổng,
– Lê Quư Đôn giải thích: ”ngày
trước, họ Nguyễn mở mang bờ cơi về
phương Nam, thiết lập các phủ, huyện; Những
nơi gần rừng, núi, hoặc những nơi ở dọc
khe, dọc biển đều được đặt
làm thuộc, bao nhiêu những phường, thôn, châu, man linh
tinh và phân tán đều được lệ phụ vào thuộc
cả, …cùng các tổng đồng nhau, …các thuộc không
được thiết lập trong thời gian quá 7
năm”. Theo thống kê của Lê Quí Đôn th́ phủ Phú
Yên có 38 thuộc-con số này lớn hơn hẳn các phủ
khác- về dân đinh phủ Phú Yên có 4324 dân đinh; dân tuy
không đông nhưng các khoảng thuế và nguồn lợi
thu được lớn hơn các phủ lân cận (xem Lê
Quí Đôn, Phủ Biên tạp lục, PQVK ĐTVH xuất
bản, SaiGon, 1972).
Năm 1653, đời
Chúa Nguyễn Phúc Tần, đại quân Chúa Nguyễn tiến
đến sông Phan Rang. Chúa Nguyễn lấy đất mới
thu được đặt làm dinh Thái Khang. Từ đây
vai tṛ trấn biên của Phú Yên chấm dứt.
Tháng
4-1758, Chúa sai Nguyễn Khoa Trực làm Trấn thủ phủ Phú Yên,
đốc thu các thứ thuế. Chúa Nguyễn dùng thuế
như là một chính sách để thu hút các nguồn lực,
đẩy nhanh cuộc khẩn hoang, nhằm xác lập một
cách vững chắc chủ quyền trên vùng đất mới.
Năm
1771, anh em Tây Sơn khởi nghiệp binh tại Tây Sơn
thượng và Tây Sơn hạ. Sau khi hạ thành Qui
Nhơn, quân Tây Sơn tiến chiếm Quảng
Năm 1800, Nguyễn Ánh lại
đem binh ra đánh Phú Yên, tháng 5-1800, bộ binh của Nguyễn
Văn Thành chiếm được Phú Yên. Chúa Nguyễn cho
thành lập nhiều kho lương thực tại vịnh
Xuân Đài để tiếp tế cho lực lượng
đang đánh Qui Nhơn
Năm 1801, Tướng
Tây Sơn là Trần Quang Diệu sai Phạm Văn Điềm
vào đánh Phú Yên, song không thu được kết quả.
Đất Phú Yên hoàn toàn do chúa Nguyễn kiểm soát. Chúa Nguyễn
đặt làm dinh Phú Yên, đặt công đường
và quan cai trị, đóng lị sở tại thành Hội
Phú.
Sau khi đánh thắng hoàn toàn Tây Sơn, Gia
Long thiết lập bộ máy cai trị đất nước,
cả nước chia ra 23 trấn và 4 doanh. Từ Thanh Hóa
ngoại (Ninh B́nh hiện nay) trở ra gọi là Bắc
Thành có 11 trấn, gồm 5 nội trấn là Sơn Nam
Thượng, Sơn Nam Hạ, Sơn Tây, Kinh Bắc và Hải
Dương; 6 ngoại trấn là Tuyên Quang, Hưng Hóa, Cao Bằng,
Lạng Sơn, Thái Nguyên, Quảng Yên. Từ B́nh Thuận trở
vào gọi là Gia Định thành gồm 5 trấn là: Phiên An,
Biên Ḥa, Vĩnh Thanh, Vĩnh Tường và Hà Tiên. Đất
Kinh kỳ có 4 doanh là: Trực Lệ Quảng Đức doanh
(Thừa Thiên hiện nay), Quảng Trị doanh, Quảng
B́nh doanh, Quảng
Ở Bắc thành và Gia
Định thành đều đặt chức Tổng trấn
và Phó Tổng trấn để coi mọi việc. Ở
các trấn th́ đặt quan Lưu trấn hoặc Trấn
thủ, quan Cai bạ và quan Kư lục để cai trị
trong trấn. Trấn chia ra phủ, huyện, châu, đặt
chức Tri phủ, Tri huyện, Tri châu để cai trị
trong phủ, huyện, châu.
Từ 1808 đến 1826 trấn
Phú Yên có 2 huyện (Đồng Xuân và Tuy Hoà), trong đó có 6
tổng (mỗi huyện có 3 tổng: Thượng, Hạ,
Trung) và thuộc Hà Bạc. Huyện Tuy Hoà cai quản 80 xă,
thôn, giáp, phường; huyện Đồng Xuân cai quản
63 xă, thôn, phường, châu; thuộc Hà Bạc coi 28 thôn, ấp,
phường.
Trấn Phú Yên đo đạc xong ruộng đất
và lập địa bạ cho từng thôn, ấp trong 2
năm 1815-1816: huyện Tuy Hoà có trên 3200 mẫu ruộng
đất sử dụng trong số diện tích là trên 15406
mẫu, huyện Đồng Xuân có trên 13492 mẫu ruộng
đất sử dụng trong số diện tích là trên 22133
mẫu đất (xem Nguyễn Đ́nh Đầu, Nghiên
cứu địa bạ triều Nguyễn- tỉnh Phú
Yên, Nxb TP HCM, 1997).
Năm Minh Mệnh thứ
7 (1826), trấn Phú Yên trở lại thành phủ Phú Yên, đặt
chức Tri phủ; phủ Phú Yên kiêm lư huyện
Đồng Xuân. Năm 1831, đổi làm phủ Tuy An cho
thuộc vào trấn B́nh Định.
Vào khoảng năm 1831- 1832 (Minh Mạng
thứ 12- 13), Minh Mạng theo lối nhà Thanh, đổi trấn
làm tỉnh, chia cả nước
ra làm 30 tỉnh như sau: Lạng Sơn, Cao Bằng,
Hưng Hóa, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Bắc Ninh, Sơn Tây, Quảng
Yên, Hải Dương, Hưng Yên, Nam Định, Hà Nội,
Ninh B́nh, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng B́nh, Quảng
Trị, Quảng Nam, Quảng Ngăi, B́nh Định, Phú Yên,
Khánh Ḥa, B́nh Thuận, Phiên An, Biên Ḥa, Vĩnh Long, Định
Tường, An Giang, Hà Tiên. Như vậy đơn vị
hành chánh tỉnh
ở nước ta có từ năm 1831; 1832.
Mỗi tỉnh cho xây dựng 1 ṭa
thành làm nơi đóng quân thường trực của tỉnh
đồng thời cũng là lỵ sở hành chánh của
tỉnh. Thành của đạo Phú Yên được xây tại
thôn Long Uyên (xă An Dân), dựa theo kiểu thành Vauban. Tuy xây
theo kiểu Vauban nhưng vẫn giữ truyền thống
phương Đông. Thuật phong thủy được
áp dụng nghiêm ngặt trong chọn đất, chọn
hướng xây thành. Thành Long Uyên (c̣n gọi là thành An Thổ)
được xây trên vị trí có sông Cái trước mặt
uốn lượn như con rồng trườn ḿnh xuống
vực, đây là vùng đất cát tường, có địa
h́nh lưu giữ địa khí, xa xa có núi làm b́nh phong.
Việc chọn Long Uyên
xây dựng lỵ sở ngoài lư do địa h́nh, phong thủy,
có lẽ sau gần 30 năm cai trị các quan lại địa
phương và Triều đ́nh nhà Nguyễn nhận thấy
Long Uyên thuận lợi hơn Hội Phú. Lỵ sở
đóng ở Long Uyên đi lại cả đường thủy
và đường bộ đều tiện lợi, từ
Tiên Châu lên Long Uyên tàu thuyền đi thông suốt, từ
Long Uyên đi ngựa, đi bộ về các phủ, huyện,
làng, xă trong tỉnh cũng thuận hơn. Long Uyên là một
trong các làng, xă có dân số đông của tỉnh, đây là
vùng trù phú, phồn thịnh lúc bấy giờ. Trong điều
kiện t́nh h́nh chính trị- quốc pḥng ổn định,
Triều đ́nh đang đẩy mạnh việc phát triển
kinh tế nên việc chọn lỵ sở mới cho tỉnh
là để đáp ứng yêu cầu mới phục vụ
cho việc cai trị tại địa phương cũng
như cho Triều đ́nh.
Về quan chức, Minh Mạng
đặt các chức Tổng đốc, Tuần phủ,
Bố chánh, Án sát, Lănh binh, Thủy sư lănh binh để
trông coi việc cai trị, tuần pḥng ở các tỉnh,
thành. Phân chia chức vụ, đảm nhiệm, qui định
nhiệm vụ cụ thể cho Tổng đốc, Tuần
phủ, Bố chánh, Án sát. Định ra 31 điều qui
định về chế độ tâu báo lên vua, về việc
xét xử h́nh án, điều động quân đội, tuyển
binh, huy động thuế khóa,…Tỉnh Phú Yên đặt
Quan Bố Chánh (chánh tam phẩm) phụ trách các công việc
hành chính thuần tuư và công việc thuế má, Quan Án Sát (ṭng
tam phẩm) phụ trách công việc kiện tụng, thuộc
Tổng đốc B́nh Phú thống hạt.
Năm 1853, Vua Tự Đức đổi
tỉnh Phú Yên thành đạo Phú Yên để rút bớt
quan lại. Triều đ́nh vẫn
lấy thành Long Uyên-An Thổ làm lỵ sở đạo Phú
Yên. Đặt chức Quản đạo (ṭng tứ
phẩm) trông coi. Quản đạo Phú Yên kiêm lư 2 huyện
Đồng Xuân và Tuy Ḥa. Đạo Phú Yên do tỉnh B́nh
Định thống thuộc, giấy tờ phải ghi 3
chữ tỉnh B́nh Định lên đầu.
Tháng 2-1864, Triều
đ́nh cho phép các tỉnh “Tả trực kỳ”(B́nh
Định, Phú Yên, Khánh Ḥa, B́nh Thuận) được
thành lập đội quân mang tên”Đội quân thiên thiện”(quân
thiên thiện gồm binh lính các tỉnh phạm tội và tù
phạm các nơi bị phát lưu đi làm việc quân c̣n
mạnh khỏe, tuổi dưới 60). Tháng 3-1864, Triều
đ́nh đặt thêm ở Phú Yên 1 Phó quản đạo
(trật chánh ngũ phẩm), bổ sung thêm 1 bát phẩm
thư lại, 1 cửu phẩm thư lại, 6 nhập
lưu thư lại. Như vậy có: 1 Chánh quản đạo,
1 Phó quản đạo, 2 bát phẩm thư lại, 2 Cửu
phẩm thư lại và 16 vị nhập lưu thư lại.
Năm 1876 (Ất Hợi - Tự Đức thứ
28), đạo Phú Yên nâng lên thành tỉnh Phú Yên. Tỉnh Phú
Yên có 1 Bố Chánh, dưới quyền có 1 Án sát coi về
tư pháp, 1 Đốc học coi về giáo dục,
nhưng vẫn do Tổng đốc B́nh Phú thống quản.
Khi thực dân Pháp thiết
lập bộ máy thống trị của chúng trên đất
nước ta, theo Hiệp ước Triều đ́nh nhà
Nguyễn kư với Pháp ngày 6-6-1884 th́ Trung Kỳ gồm 12 tỉnh:
B́nh Thuận, Khánh Hoà, Phú Yên, B́nh Định, Quảng Ngăi,
Quảng Nam, Thừa Thiên, Quảng Trị, Quảng B́nh, Hà
Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hoá. Quan chức đầu tỉnh
là Tuần Vũ nhưng quyền hành do Công sứ Pháp nắm.
Tháng 7&8-1885, hưởng
ứng chiếu Cần Vương, thân hào Phú Yên nổi
đậy tiến công tỉnh thành An Thổ, bắt giam Bố
chánh Phạm Như Xương; Án sát Hoàng Cân, Lănh binh Nguyễn
Văn Hanh phải bỏ thành chạy trốn. Nghĩa quân
tiến đánh huyện thành Tuy Ḥa, Tri huyện Tuy Ḥa là
Đinh Duy Tân phải chạy trốn vào Khánh Ḥa. Đầu
năm 1886, Lê Thành Phương tập trung lực lượng
tái đánh thành An Thổ, tỉnh lỵ Phú Yên. Nghĩa quân
lại chiếm được tỉnh thành. Tiếp đó
tiến đánh huyện thành Tuy Ḥa, Tri phủ huyện Tuy
Ḥa là Đinh Văn Tân phải chạy trốn. Tiếp
đến vào tháng 7-1886, nghĩa quân tiến công chiếm tỉnh
thành An Thổ lần nữa. Các cuộc tiến công của
nghĩa quân do Lê Thành Phương lănh đạo cùng với
các chiến thắng của nghĩa quân 2 tỉnh Khánh Ḥa,
B́nh Thuận, lực lượng Cần Vương Phú Yên,
Khánh Ḥa, B́nh Thuận đă làm chủ 3 tỉnh.
Mùa hè năm 1886, Pháp bắt
đầu tổ chức phản công. Lê Thành Phương bị
bắt ngày
Do
áp lực của phong trào Cần Vương đang diễn
ra trên địa bàn làm cho t́nh h́nh cai trị của bộ
máy thống trị khó khăn; sự thiếu ổn định
về an ninh, về ḷng dân tại vùng đất đang
đóng tỉnh lỵ có lẽ là lư do mà Pháp chọn Tân Thạnh,
Xuân Thọ - nằm phía Bắc Tỉnh đường cũ,
có vũng Lắm tàu dễ ra vào - để xây Ṭa Công sứ
(1888), dinh Tuần Vũ cũng chuyển theo. Tỉnh lỵ
Phú Yên đến vị trí mới, thành An Thổ chấm dứt
vai tṛ tỉnh thành (có lúc là trấn, dinh, đạo thành).
Năm 1899 (Kỷ Hợi - Thành Thái thứ
11), huyện Tuy Hoà được thăng thành phủ, lập
phủ Tuy An và huyện Sơn Hoà. Phú Yên có 2 phủ và 2 huyện,
đó là:
- Phủ
Tuy An coi 5 tổng An Sơn, An Hải, An Vinh, An
Đức, An Phú và 69 xă thôn phường;
- Huyện
Đồng Xuân do phủ Tuy An thống
hạt lănh 3 tổng Xuân Đài, Xuân B́nh, Xuân Phong và 47 xă thôn
phường ấp;
- Phủ Tuy Hoà quản trị 6 tổng Hoà Đa, Hoà B́nh,
Hoà Mỹ, Hoà Lạc, Hoà Lộc, Hoà Tường (lập
năm 1900) với 109 xă thôn phường ấp;
- Huyện Sơn Hoà do phủ Tuy Hoà thống hạt lănh coi 4 tổng
Sơn Lạc, Sơn Xuân, Sơn Tường, Sơn B́nh với
43 xă thôn phường ấp.
Phủ hay huyện là đơn vị
hành chính như nhau tuy vẫn giữ nguyên tắc phủ thống
hạt huyện - thống hạt nghĩa là tuy có Tri huyện
nhưng ở dưới quyền Tri phủ thống quản.
Phủ hay huyện đều do Công sứ Pháp điều
hành qua trung gian quan
Ngày
Theo tài liệu thống kê Annauire
statistique de l’ Indochine th́ tỉnh Phú Yên năm 1936 có diện
tích 4300 km2; dân số 251.000 người, có 2 phủ,
2 huyện: huyện Đồng Xuân có 3 tổng, 50 thôn; huyện
Sơn Hoà có 4 tổng, 45 xă thôn; phủ Tuy An có 5 tổng, 86
xă thôn; phủ Tuy Hoà có 7 tổng, 1 thành phố, 131 xă thôn hộ
phường.
Thời thực dân Pháp thống
trị, việc điều hành ở làng xă do Hội đồng
kỳ mục (c̣n gọi Hội đồng kỳ hào),
đứng đầu là Tiên chỉ, sau là Thứ chỉ và
các uỷ viên. Chức năng của Hội đồng là
xét duyệt các hương ẩm, hương ước,
ngân sách, quản lư dân đinh, ruộng đất, công
điền, thuế khoá, xây dựng và quản lư các công
tŕnh công cộng,… Hội đồng kỳ mục uỷ
thác công việc hàng ngày cho một uỷ ban thường trực.
Xă lớn uỷ ban này có 7 đến 10 người, xă vừa
uỷ ban này có 4 đến 7 người, xă nhỏ th́ có 2
đến 4 người. Cơ quan quản trị (chấp
hành) có Lư trưởng, Phó lư và Ngũ hương. Ngũ
hương có: Hương bộ chuyên trách hộ tịch;
Hương bản chuyên trách ngân sách; Hương kiểm
chuyên trách trị an, chỉ huy các Trương tuần, Tuần
đinh; Hương mục chuyên trách việc huy động
nhân công, xây dựng, quản lư công tŕnh công cộng;
Hương dịch chuyên trách việc hành chính, lễ nghi, vệ
sinh công cộng. Người đại diện cho xă trong
việc giao tiếp với cấp trên là Lư trưởng và
Phó lư giúp việc.
Việc tuyển chọn
Hội đồng kỳ mục và cơ quan chấp hành xă
do tục lệ mỗi xă qui định. Đến đầu
năm 1942, Bảo Đại ra đạo dụ cải
cách cơ cấu quản trị cấp xă ở Trung kỳ
- được Khâm sứ Trung kỳ là Grandjean chuẩn y
ngày
Nhiều xă hợp lại
thành tổng, có Chánh tổng và Phó tổng đảm nhiệm
công việc hành chính.
Cho đến trước
Cách mạng tháng Tám (1945), địa lư và thiết chế
hành chính Phú Yên không thay đổi mấy so với mốc
điều chỉnh năm 1921. Theo Việt Nam niên giám thống
kê (NXB Viện QGTK, SaiGon, 1957), tỉnh Phú Yên vào năm
1943 có diện tích 3700 km2, có dân số 282.900 người.
Toàn tỉnh có 19 tổng, gồm:
- Phủ Tuy Hoà có 7 tổng:
Hoà B́nh, Hoà Đa, Hoà Mỹ, Hoà Lộc, Hoà Lạc, Hoà Tường,
Hoà Đồng;
- Phủ Tuy An có 5 tổng:
An Sơn, An Hải, An Vinh, An Đức, An Phú;
- Huyện Đồng
Xuân có 3 tổng: Xuân Đài, Xuân B́nh, Xuân Phong;
- Huyện Sơn Hoà có 4 tổng:
Sơn B́nh, Sơn Xuân, Sơn Lạc, Sơn Tường.
Sau Cách mạng tháng Tám
(1945), ngày
26-8-1945, Uỷ ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh Phú
Yên được thành lập tại tỉnh lỵ Sông Cầu.
Uỷ ban nhân dân cách mạng lâm thời phủ Tuy Hoà, khu Tuy
Hoà, phủ Tuy An, huyện Đồng Xuân, khu Đồng
Ḅ, huyện Sơn Hoà cũng lần lượt thành lập.
Theo Hiến pháp năm
1946, Nước Việt Nam về phương diện hành
chính có 3 Bộ: Bắc, Trung, Nam; mỗi Bộ chia thành tỉnh,
mỗi tỉnh chia thành huyện, mỗi huyện chia thành
xă; chính quyền địa phương gồm 4 cấp:
xă, huyện, tỉnh, bộ; ở cấp xă và cấp tỉnh
có Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính; ở cấp
huyện và cấp bộ chỉ có Uỷ ban hành chính. Cả
nước có 73 đơn vị hành chính cấp tỉnh. Tỉnh Phú Yên
thuộc Trung bộ. Ngoài các đơn vị hành chính
cấp bộ, tỉnh, huyện, xă, từ cuối năm
1945 thực hiện chủ trương của Chính phủ,
9 chiến khu lần lượt được thành lập;
từ cuối năm 1946 đến đầu năm 1948
phân chia lại thành 15 khu; từ đầu năm 1948 trở
đi tổ chức lại thành 7 liên khu.
Lúc đầu tỉnh Phú Yên thuộc Chiến khu
6 (Chiến khu 6 gồm các tỉnh: Phú Yên, Khánh Hoà, Ninh
Thuận, B́nh Thuận, Đắc Lắc, Lâm Viên, Đồng
Nai Thượng); từ đầu năm 1948 cho đến trước
Hiệp định Giơ ne vơ Phú Yên thuộc Liên khu Miền
Nam Trung bộ - c̣n gọi là Liên khu V (Liên khu V có các tỉnh,
thành phố: Quảng Nam - Đà Nẵng, Quảng Ngăi, B́nh
Định, Phú Yên, Khánh Hoà, Ninh Thuận, B́nh Thuận, Gia
lai- Kon Tum, Pleiku, Đăc-Lăc, Lâm Đồng).
Tháng 3-1946, bầu cử
Hội đồng nhân dân tỉnh Phú Yên khoá đầu tiên.
Tỉnh lỵ Phú Yên chuyển từ Sông Cầu về Tuy
Hoà (Thành phố Tuy Hoà hiện nay). Giữa năm 1946, thực
hiện chủ trương của Uỷ ban hành chính Trung bộ,
chấn chỉnh các cấp hành chính, bỏ cấp tổng,
nhập các làng nhỏ thành xă, trên xă là huyện, không c̣n cấp
phủ. Sau nhập xă, tỉnh Phú Yên có 84 xă. Tháng 9-1946, bầu
Hội đồng nhân dân các xă. Đến cuối
năm 1946, chính quyền cả tỉnh được củng
cố, các ban ngành chuyên môn được sắp xếp
thành hệ thống dọc từ tỉnh xuống đến
xă.
Thi hành chỉ thị của
Uỷ ban hành chính Trung bộ, tháng 7-1946 tỉnh Phú Yên thành lập
Uỷ ban quân dân chính các cấp; tháng 11-1946, toàn tỉnh chia làm 6 chiến
khu và 2 huyện miền núi là Tân Sơn và Tân Xuân. Huyện
Tân Sơn gồm các xă đồng bào dân tộc thiểu số
huyện Sơn Hoà, Huyện Tân Xuân gồm các xă đồng
bào dân tộc thiểu số huyện Đồng Xuân, Chiến
khu 1 gồm các xă Nam sông Đà Rằng, Chiến khu 2 gồm
các xă Bắc sông Đà Rằng, Chiến khu 3 gồm các xă của
huyện Tuy An, Chiến khu 4 gồm các xă của huyện
Sơn Hoà, Chiến khu 5 gồm các xă Tây huyện Đồng
Xuân, Chiến khu 6 gồm các xă Đông huyện Đồng
Xuân (nay là huyện Sông Cầu); mỗi chiến khu thành lập
Uỷ ban kháng chiến chiến khu.
Cuối năm 1947 bỏ cấp
chiến khu và 2 huyện miền núi, trở lại thành 4
huyện Tuy Hoà, Tuy An, Đồng Xuân, Sơn Hoà như cũ;
thực hiện hợp xă lần thứ 2 – toàn tỉnh
có 68 xă (57 xă người kinh và 11 xă người dân tộc
thiểu số). Uỷ ban hành chính và Uỷ ban kháng chiến
thống nhất thành Uỷ ban hành chính-kháng chiến. Hệ
thống chính quyền địa phương có 3 cấp: tỉnh,
huyện, xă. Uỷ ban hành chính- kháng chiến tỉnh có các
ty, sở: Ty kinh tế, Ty y tế, Ty giáo dục, Ty b́nh dân học
vụ, Ty văn hoá thông tin, Ty tài chính, Sở mậu dịch,
Sở nông giang, Ngân hàng Nhà nước, Toà Án.
Tháng 1-1949, bầu Hội
đồng nhân dân tỉnh lần 2 . Năm 1950, thực hiện
chủ trương hợp nhất xă lần thứ 3, toàn
tỉnh c̣n 55 xă (47 xă người kinh, 8 xă người dân tộc
thiểu số). Tỉnh Phú Yên có 1 thị xă Tuy Hoà (có lúc gọi
là xă Hoà An) và 4 huyện (huyện Tuy Hoà có 15 xă, huyện Tuy
An có 14 xă, huyện Đồng Xuân có 13 xă, huyện Sơn
Hoà có 13 xă); dân số toàn tỉnh có 295.600 người.
Năm 1951, cử tri trong tỉnh bầu
Hội đồng nhân dân tỉnh và Hội đồng nhân
dân xă lần 3. Từ năm 1951 tên các xă đặt lại
có chữ đầu là chữ sau tên của huyện.
* Huyện Tuy Hoà đặt quận lỵ ở Tuy
Hoà, có các xă:
-
Hoà Thành (tên cũ
là Phú Đồng, Quyết Thắng);
-
Hoà B́nh (tên cũ
là Mỹ Đông, Lê Thịnh);
-
Hoà Phong (tên cũ
là Mỹ Phước, Đoàn Châu);
-
Hoà Tân (tên cũ
là Nhất Sơn, Tam Đồng, Cam Thịnh);
-
Hoà Đồng
(tên cũ là Phú Vinh, Hoà Vinh, Hoà
-
Hoà Mỹ (tên cũ
là Mỹ Chi, Quảng Mỹ, Ngọc Sơn);
-
Hoà Thịnh (tên
cũ là Liên Hiệp Mỹ);
-
Hoà Hiệp (tên
cũ là Đồng Tâm, Hoà Hiệp, Tân Lâm);
-
Hoà Vinh (tên cũ
là Đại Thành);
-
Hoà Xuân (tên cũ
là Thạch B́nh, Hoà Hảo);
-
Hoà Kiến (tên
cũ là Hoà Tiến, Hoà Thuận);
-
Hoà Trị (tên cũ
là
-
Hoà Quang (tên cũ
là Trần Hào, Ái Quốc, Thắng Lợi);
-
Hoà Định
(tên cũ là Vĩnh Hiệp, Cẩm Phú);
-
Hoà Thắng (tên
cũ là Tân Tiến, Quốc Tuấn).
* Huyện Tuy An
đặt quận lỵ ở Chí Thạnh, có các xă:
-
An Nghiệp (tên
cũ là Hưng Đạo);
-
An Định
(tên cũ là Nhất Trí);
-
An Thạch (tên
cũ là Phú Ngân);
-
An Ninh (tên cũ
là Phú Châu);
-
An Hải (tên cũ
là Hy Sinh);
-
An Lĩnh (tên cũ
là Thái Lĩnh);
-
An Thọ (tên cũ
là An Trị);
-
An Mỹ (tên cũ
là Tiền Phong);
-
An Hoà (tên cũ là
Hạnh Phúc);
-
An Chấn (tên cũ
là Đại Đồng);
-
An Cư (tên cũ
là Đồng Tâm);
-
An Xuân (tên cũ
là Đoàn Kết);
-
An Dân (tên cũ
là Tam Hiệp);
-
An Hiệp (tên cũ
là Liên Hiệp).
* Huyện Đồng
Xuân đặt quận lỵ ở La Hai, có các xă:
-
Xuân Lộc (tên
cũ là Ngọc Quyến);
-
Xuân Cảnh (tên cũ là Chí Minh);
-
Xuân Thịnh (tên cũ là Đội
Cung);
-
Xuân Phương (tên cũ là Tú
Phương);
-
Xuân Thọ (tên cũ là Phan Thanh,
Minh Khai);
-
Xuân Sơn (tên cũ là Tân Dân);
-
Xuân Long (tên cũ là Phước
Long);
-
Xuân Lănh (tên cũ là Đăng
Lưu);
-
Xuân Quang (tên cũ là Tú Trọng,
Xuân Trường);
-
Xuân Phước (tên cũ là Vơ Thiệp,
Nguyễn Lung);
-
Phước Tân (tên cũ là Bầu
Bèn);
-
Phú Mỡ (tên cũ là Phú Giang);
* Huyện Sơn Hoà đặt
quận lỵ ở Củng Sơn, có các xă:
-
Sơn Hà (tên cũ
là Hội Giang, Phú Điềm);
-
Sơn Phước (tên cũ là Tân Hiệp);
-
Sơn Hội (tên cũ là Hội
Sơn);
-
Sơn Định
(tên cũ là Liên Hoà);
-
Sơn Xuân (tên cũ
là Liên Hiệp);
-
Sơn Long (tên cũ
là Tiên Long);
-
Sơn B́nh (tên cũ
là Cộng Hoà, B́nh Đán);
-
Sơn Thành (tên
cũ là Quốc Bửu, An Hoà, An Thuận);
-
Các xă đồng
bào dân tộc thiểu số Cà Lúi, Suối Trai, Krong Pa, Suối
Bạc, Ḥn Nhọn (nay là xă Sông Hinh) vẫn để nguyên
tên, không đổi.
* Thị xă Tuy Hoà (có lúc gọi
là xă Hoà An) có các phường:
-
Phường I
(tên cũ là B́nh Nhạn);
-
Phường 2
(tên cũ là B́nh Thạnh);
-
Phường 3
(tên cũ là B́nh An);
-
Phường 4
(tên cũ là B́nh Mỹ);
-
Phường 5
(tên cũ là B́nh Hoà);
-
Phường 6
(tên cũ là B́nh Lợi);
-
Phường 7
(tên cũ là B́nh Phú).
Các Uỷ ban hành chính - kháng chiến
tỉnh, huyện, xă hoạt động đến hết
tháng 7-1954 kết thúc, khi Hiệp định Giơnevơ
có hiệu lực.
Sau Hiệp định
Giơnevơ (1954), Mỹ và Ngô Đ́nh Diệm không thi hành
Hiệp định Giơ nevơ, lập ra Việt Nam Cộng
Hoà ở miền Nam. Chia miền Nam Việt
Theo Nghị định
263 BNV ngày 27-5-1958 của nhà cầm quyền Sài G̣n, tỉnh
Phú Yên có diện tích 4978 km2 gồm 5 quận: Tuy Hoà
có 16 xă phường, Sông Cầu có 5 xă, Đồng Xuân có 5
xă, Tuy An có 13 xă, Sơn Hoà có 8 xă .
Về phía cách mạng, để
tiện việc lănh đạo phong trào cách mạng, Tuy Hoà
chia thành 2 đơn vị: Tuy Hoà 1 và Tuy Hoà 2 (theo quyết
định của Tỉnh uỷ Phú Yên, tháng 8-1957), Tuy Hoà 1
gồm các xă: Sơn Thành, Hoà B́nh, Hoà Đồng, Hoà Hiệp,
Hoà Mỹ, Hoà Phong, Hoà Tân, Hoà Thành, Hoà Thịnh, Hoà Vinh, Hoà
Xuân; Tuy Hoà 2 gồm các xă: Hoà Thắng, Hoà Trị, Hoà Quang,
Hoà Định, Hoà Kiến và 7 phường (đến
năm 1965 tách các phường và 2/3 xă Hoà Kiến thành
đơn vị thị xă Tuy Hoà).
Ngày 17-3 -1959 nhà cầm quyền
Sài G̣n thành
lập quận Phú Đức thuộc tỉnh Phú Yên
theo Sắc lệnh số 65 NV; ngày 28-4-1960 ra Nghị định
số 541-BNV/NC8/NĐ ấn định các đơn vị
hành chính quận Phú Đức: quận Phú Đức gồm
3 tổng có 14 xă, quận lỵ đặt tại Phú Bổn.
Sau khi có Nghị quyết
15 của Trung ương Đảng chỉ ra con đường
phát triển của cách mạng nước ta ở miền
Nam, trong đó “nhiệm vụ cơ bản của cách mạng
miền Nam là giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị
của đế quốc và phong kiến, thực hiện
độc lập dân tộc và người cày có ruộng,
góp phần xây dựng một nước Việt Nam hoà b́nh,
thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”,
phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân Phú Yên chuyển
từ h́nh thức đấu tranh chính trị sang đấu
tranh chính trị kết hợp vũ trang biến phong trào
quần chúng thành khởi nghĩa từng phần. Căn cứ
cách mạng được xây dựng, nhiều xă miền
Tây Phú Yên được giải phóng. Trên địa bàn tỉnh
Phú Yên có 2 hệ thống chính quyền (1) chính quyền cách
mạng vừa đang h́nh thành ở vùng giải phóng, (2)
chính quyền tay sai Sài G̣n đang đàn áp nhân dân trong vùng
địch tạm chiếm.
Để
tiện việc lănh đạo phong trào cách mạng, năm
1961 Tỉnh uỷ Phú Yên chia các xă đồng bào thiểu số
miền Tây tỉnh làm 4 khu:
- Khu 1: vùng Thồ Lồ;
- Khu 2: Phú Giang, Cây Vừng,
Đá Mài;
- Khu 3: Phước Tân, Suối
Ché, Ma Dú;
- Khu 4: Suối Trai, Cà Lúi,
Sau đó hợp Khu 1 và
Khu 2 thành Khu Bắc, hợp Khu 3 và Khu 4 thành Khu Trung, lập
thêm Khu Nam phía Nam sông Ba.
Ngày
Năm 1964, tỉnh Phú Yên
có 7 quận, 2 tổng, 55 xă, 312 thôn; diện tích 5389, 43 km2.
* Quận Sông Cầu có
các xă: Xuân Lộc, Xuân Cảnh, Xuân Thịnh, Xuân
Phương, Xuân Thọ; diện tích 478, 10 km2.
* Quận Đồng Xuân có các
xă: Xuân Sơn, Xuân Long, Xuân Lănh, Xuân Quang, Xuân Phước; diện
tích 1140, 49 km2.
* Quận Tuy An có các xă: An Xuân,
An Nghiêp, An Định, An Dân, An Thạch, An Ninh, An Cư, An
Hiệp, An Hải, An Hoà, An Mỹ, An Lĩnh; diện tích
324, 48 km2.
* Quận Tuy Hoà có các xă: Hoà
Định, Hoà Kiến, Hoà Quang, Hoà Thắng, Hoà Trị, Tuy
Hoà, An Thọ, An Chấn; diện tích
374,05 km2.
* Quận Hiếu Xương
có các xă: Đức Thành, Hoà B́nh, Hoà Đồng, Hoà Mỹ,
Hoà Phong, Hoà Tân, Hoà Thịnh, Hoà Thành, Hoà Hiệp, Hoà Xuân, Hoà
Vinh; diện tích 1094, 70 km2.
* Quận Sơn Hoà có các xă:
Sơn Long, Sơn Định, Sơn Phước, Sơn
Xuân, Sơn Hà, Sơn B́nh, Sơn Hội; diện tích 717, 71
km2.
* Quận Phú Đức
có các xă: Đức B́nh, tổng Phú Hoà, tổng Phú Trung; diện
tích 1259, 90 km2.
Từ ngày 1-9-1962, nhà cầm
quyền Sài G̣n chia tỉnh Phú Yên ra 2 tỉnh Phú Yên và Phú Bổn.
Tỉnh Phú Yên có diện tích
4978 km2, gồm các quận: Đồng Xuân, Sơn
Hoà, Sông Cầu, Tuy An, Tuy Hoà, Hiếu Xương.
Trên vùng đất giải
phóng, thực hiện chủ trương của Khu uỷ
Khu V, tháng 3-1966 huyện Miền Tây được thành lập
gồm 8 xă: Cà Lúi, Suối Trai, Krong Pa, Suối Bạc, Bầu
Bèn, Phú Mỡ, Đá Mài, Phước Tân.
Năm 1970, Khu uỷ Khu V
chủ trương cắt 3 xă Eabá, Eatrol, Eabia thuộc tỉnh
Đắc Lắc giao cho tỉnh Phú Yên; đồng thời
cắt xă Sông Hinh và xă Đức B́nh (huyện Sơn Hoà) hợp
cùng 3 xă trên thành lập huyện Tây Nam thuộc tỉnh Phú
Yên.
Về tổ chức
chính quyền, cuối năm 1965, phong trào đấu tranh
cách mạng ở Phú Yên có bước phát triển nhảy
vọt về nhiều mặt, ở các vùng giải phóng
đă thành lập Uỷ ban tự quản của xă, Ban nhân
dân của thôn, buôn.
Đầu năm 1969, vùng giải
phóng Phú Yên được củng cố, Uỷ ban nhân dân
cách mạng được thành lập ở 53/71 xă, phường,
thị trấn, 355/390 thôn, 87/87 buôn làng. Tháng 2-1969, Đại
hội chính trị hiệp thương lần thứ I tỉnh
Phú Yên tại núi Ḥn Giang (xă Sơn Long, huyện Sơn Hoà) bầu
Uỷ ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh Phú Yên. Đầu
năm 1970, Uỷ ban nhân mạng dân cách mạng lâm thời
thị xă Tuy Hoà và các huyện Tuy Hoà 1, Tuy Hoà 2, Tuy An, Đồng
Xuân, Sông Cầu, Sơn Hoà, Miền Tây, Tây
Đầu tháng 6-1974, Đại hội
chính trị hiệp thương tỉnh Phú Yên lần thứ
2 được tổ chức tại Hội trường
mùa Xuân (xă Sơn Long, huyện Sơn Hoà). Đại hội
bầu Uỷ ban nhân dân cách mạng tỉnh Phú Yên. Bộ
máy chuyên môn của Uỷ ban nhân dân cách mạng tỉnh có
các ban: Ban sản xuất, Ban tài chính, Ban thương nghiệp,
Ban lương thực, Ban Ngân tín, Ban Y tế, Ban giao thông vận
tải, Ban Giao bưu, Ban Giáo dục, Ban Văn hoá thông tin,
Ban Thương binh xă hội, Ban Tư pháp, Ban Thi đua khen
thưởng, Ban kế hoạch, Ban Tổ chức chính quyền,
Ban Quân sự, Ban An ninh, Điện đài –cơ yếu và
Văn pḥng Uỷ ban nhân dân cách mạng tỉnh. Cơ quan Uỷ
ban nhân dân cách mạng tỉnh lúc này đứng chân ở
B́nh Điền, Vân Hoà, xă Sơn Long, huyện Sơn Hoà.
Ngày
Đầu tháng 10-1975, huyện
Đồng Xuân và Sông Cầu nhập lại thành 1 huyện
lấy tên là huyện Đồng Xuân, huyện Sơn Hoà và
Tây Nam nhập lại thành 1 huyện lấy tên là huyện
Sơn Hoà, huyện Tuy Hoà 1 và Tuy Hoà 2 nhập lại thành 1
huyện lấy tên là huyện Tuy Hoà (theo Quyết định
số 96/c.65 ngày 3-10-1975 của Ban Thường vụ Tỉnh
uỷ Phú Yên).
Thực hiện Nghị
quyết số 245-NQ/TW ngày 20/9/1975 của Bộ Chính trị
v/v bỏ khu hợp tỉnh; Nghị quyết số 16-NQ
ngày 20-9-1975 của Thường vụ Trung ương Cục
miền Nam về việc giải thể khu, sáp nhập tỉnh;
Nghị quyết số 19 NQ/TW ngày 20-12-1975 của Bộ
Chính trị về việc điều chỉnh việc hợp
nhất một số tỉnh ở miền Nam; Nghị
định của Hội đồng Chính phủ Cách mạng
lâm thời CHMNVN về việc giải thể khu, họp
nhất tỉnh ở miền Nam Việt Nam, cuối
năm 1975, 2
tỉnh Phú Yên và Khánh Hoà hợp nhất thành tỉnh Phú
Khánh. Tỉnh Phú Khánh có diện tích 9804 km2, dân
số 1.463.000 người, gồm: TP Nha Trang (Tỉnh lỵ),
TX Tuy Hoà và 13 huyện: Đồng Xuân, Sông Cầu, Tuy An, Tuy
Hoà, Sông Hinh, Sơn Hoà, Vạn Ninh, Ninh Hoà, Diên Khánh, Khánh
Sơn, Khánh Vĩnh, Cam Ranh, Trường Sa.
Tháng 6-1976, thực hiện
chủ trương của cấp trên, 2 huyện Sơn Hoà
và Miền Tây hợp nhất thành huyện Tây Sơn; đầu
năm 1977, hợp nhất huyện Tuy Hoà và thị xă Tuy Hoà
thành huyện
Tuy Hoà, hợp nhất các huyện Tuy An, Đồng
Xuân và các xă Sơn Long, Sơn Định, Sơn Xuân, Phú Mỡ
thành 1 huyện, lấy tên là huyện Xuân An (theo Quyết định
số 49-CP ngày 10-3-1977 của Hội đồng Chính phủ).
Đến cuối năm 1978, huyện
Tuy Hoà lại chia ra thành huyện Tuy Hoà và thị xă Tuy Hoà -
thị xă Tuy Hoà có 6 phường và 2 xă B́nh Kiến, B́nh Ngọc;
chia huyện Xuân An thành 2 huyện Tuy An và Đồng Xuân,
chuyển các xă Sơn Xuân, Sơn Long, Sơn Định về
Tây Sơn (theo Quyết định số 241-CP ngày 22-9-1978 của
Hội đồng Chính phủ). Tháng 9-1981, tách 6 xă Hoà Trị,
Hoà An, Hoà Thắng, Hoà Quang, Hoà Định, Hoà Hội của
huyện Tuy Hoà nhập vào thị xă Tuy Hoà (theo Quyết
định số 48-HĐBT ngày 5-9-1981 của Hội đồng
Bộ trưởng). Cuối năm 1984, chia huyện Tây
Sơn thành 2 huyện lấy tên là huyện Sông Hinh và huyện
Sơn Hoà (theo Quyết định số 179-HĐBT ngày
Ngày 4-3-1989, Bộ Chính trị
TW Đảng có Quyết định số 83-QĐ/TW về
việc chia tỉnh Phú Khánh thành 2 tỉnh Phú Yên và Khánh Hoà; ngày 30-6-1989, Kỳ
họp thứ V, Quốc hội Khoá VIII có Nghị quyết
chia tỉnh Phú Khánh thành 2 tỉnh Phú Yên và Khánh Hoà. Theo
Quyết định của Bộ Chính trị và Nghị
quyết của Quốc hội, tỉnh Phú Yên được
tái lập. Tỉnh Phú Yên có diện tích 5278 km2, dân số
641.791 người, gồm các đơn vị: thị xă
Tuy Hoà có 6 phường và 10 xă, huyện Tuy Hoà có 1 thị trấn
và 17 xă, huyện Tuy An có 1 thị trấn và 16 xă, huyện
Sông Cầu có 1 thị trấn và 9 xă, huyện Đồng
Xuân có 1 thị trấn và 10 xă, huyện Sơn Hoà có 1 thị
trấn và 11 xă, huyện Sông Hinh có 1 thị trấn và 6 xă.
Cuối năm 1993-đầu
năm 1994, điều chỉnh địa giới hành chính
giữa 2 tỉnh Phú Yên và Khánh Hoà tại khu vực Đèo Cả-
Vũng Rô theo Nghị quyết kỳ họp thứ 4, Quốc
hội khoá IX và Quyết định số 26-TTg ngày 20-1-1994
của Thủ tướng Chính phủ: tuyến ranh giới
giữa Phú Yên và Khánh Hoà tại khu vực Đèo Cả- Vũng
Rô được cắt từ đỉnh cao nhất
580-600m xuống mơm phía Nam núi Đá Đen theo kinh độ
109 độ 23 phút 24 giây Đông, vĩ độ 12 độ
50 phút 28 giây Bắc, tới chân mép nước phía Nam đảo
Ḥn Nưa- tính lúc nước thuỷ triều thấp nhất,
phía Bắc thuộc huyện Tuy Hoà do tỉnh Phú Yên quản
lư, phía Nam thuộc huyện Vạn Ninh do tỉnh Khánh Hoà quản
lư.
Ngày
31-1-2002, Chính phủ ra Nghị định số
15/2002/NĐ-CP tách Thị xă Tuy Hoà thành 2 đơn vị hành chính là
Thị xă Tuy Hoà và huyện Phú Hoà. Huyện Phú Hoà có diện
tích tự nhiên 263, 24 km2, dân số 98.044 người;
có các xă: Hoà Quang
Ngày 5-1-2005, Chính phủ ra
Nghị định số 03/2005/NĐ-CP thành lập Thành phố
Tuy Hoà thuộc tỉnh Phú Yên; Thành phố Tuy Hoà có diện
tích tự nhiên 106,82 km2, dân số 162.278 người,
có 14 đơn vị hành chính trực thuộc gồm các
phường 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, phường Phú Lâm và các
xă B́nh Ngọc, B́nh Kiến, Hoà Kiến và An Phú.
Ngày
Đến cuối
năm 2005, tỉnh Phú Yên có : 1 thành phố trực thuộc
tỉnh và 8 huyện (TP Tuy Hoà, các huyện Đông Hoà, Tây
Hoà, Phú Hoà, Tuy An, Sông Cầu, Đồng Xuân, Sơn Hoà và
Sông Hinh), trong đó có 9 phường, 5 thị trấn và 92
xă.
Tài liệu tham khảo:
- Đại
cương Lịch sử Việt Nam toàn tập,
Trương Hữu Quưnh chủ biên, NXB Giáo Dục, 2001;
- Đại Nam liệt
truyện, Quốc sử quán, NXB Thuận Hoá Huế,
1993;
- Đại Nam nhất
thống chí, Q.10-11, Quốc sử quán, NXB Nha văn hoá,
- Đại Việt sử
kư toàn thư, Ngô Sĩ Liên, NXB KHXH, Hà Nội, 1971;
- Địa bạ Phú
Yên, Nguyễn Đ́nh Đầu, NXB TpHCM, 1997;
- Địa chí Phú Yên,
UBND tỉnh Phú Yên, NXB CTQG, 2003;
- Đất nước
Việt Nam qua các đời, Đào Duy Anh, NXB Thuận
Hoá Huế, 1997;
- Khâm
Định Việt sử thông giám cương mục,
Quốc sử quan, NXB Giáo dục, 1998;
- Lịch sử Đảng
bộ tỉnh Phú Yên, Ban Tuyên giáo T.uỷ PY
- Lịch sử
Vương quốc Champa, Lương Ninh, NXB Đại
học QG Hà Nội, 2004;
- Nguyễn Trăi toàn tập,
Viện sử học, NXB KHXH, Hà Nội 1976;
- Phú Yên một thời
để nhớ, Nhiều tác giả, Thư viện Phú
Yên, 2001;
- Việt Nam những
thay đổi địa danh và địa giới hành chánh,
Nguyễn Quang Ân, NXB Thông tấn, Hà Nội, 2003;
- Việt Nam những sự
kiện lịch sử, 4 tập, Viện sử học,
NXB Giáo dục, 1999;
- Xứ Đàng Trong,
Li TaNa, NXB Trẻ, 1999;
KINH TẾ - XĂ HỘI PHÚ YÊN TRONG THẾ KỶ XVII – XVIII
ThS. Lê Thế
Vịnh(*)
I.
T́nh h́nh kinh tế Phú Yên trong thế kỷ XVII-XVIII
Sau khi
được cử vào trấn thủ đất Thuận
Quảng, với ư đồ cát cứ và thống trị
lâu dài, Chúa Nguyễn Hoàng đă tích cực xây dựng và phát
triển Đàng Trong thành một khu vực độc lập,
riêng biệt.
Phú Yên là vùng đất
thuộc Dinh Trấn Biên, nơi phân chia địa giới
giữa Đại Việt và Chiêm Thành, là biên cương của
Tổ quốc, nên Chúa Nguyễn chăm lo xây dựng nơi
này vững mạnh về mọi mặt. Do vậy, từ
năm 1578, ông Lương Văn Chánh chiêu tập dân xiêu tán
đến Cù Mông, Bà Đài khai khẩn ruộng hoang ở
Đà Diễn. Song công cuộc khai phá vùng đất Phú Yên
thật sự được đẩy mạnh vào năm
1597, khi chúa Nguyễn Hoàng ủy ông Lương Văn Chánh
đưa lưu dân vào Phú Yên đến các xứ: Cù Mông, Bà
Đài, Bà Diễn, Bà Nông “trên từ
vùng sơn cước, dưới th́ đến cửa biển,
cùng nhau lập nhà cửa, khai phá đất hoang hóa, thành ruộng
vườn, trải qua ba vụ th́ nộp thuế như lệ”.
Để thu hút nông dân thực
hiện công cuộc khẩn hoang, các Chúa Nguyễn đă dùng
chính sách dinh điền di dân lập ấp, khuyến khích
những người nông dân nghèo đă di cư vào xứ
Đàng Trong trong cuộc chiến tranh Trịnh- Mạc
đem sức lao động khai hoang, và khi đă khai thác
được khá rộng th́ Chúa cho phép họ lập làng
theo khuôn mẫu của Đàng Ngoài, rồi biến tất
cả đất đai thành đất công, đem chia
đều cho nông dân cày cấy nộp tô.
Một biện pháp khác cũng
được các Chúa sử dụng là cho phép những
người mới đến không phải nộp thuế
3 năm đầu, nếu có người khai khẩn rừng
hoang thành ruộng th́ cho trưng làm ruộng tư.
Mặt khác, để
tránh những mâu thuẫn về đất đai giữa
Nhà Nước với nông dân, Chúa Nguyễn cho phép nông dân
khai thác đất hoang ngoài làng làm ruộng tư, gọi là
bản bức tư điền.
Nhằm tăng thêm lực
lượng khai thác và mở rộng tiềm lực kinh tế,
chính trị cho ḍng họ ḿnh, Chúa Nguyễn đă đốc
thúc bà con, họ hàng thân thuộc từ Thanh Hóa vào Quảng
Nam khẩn đất hoang và biến thành ruộng tư hữu,
đồng thời bổ nhiệm họ giữ những
chức vụ quan trọng trong bộ máy chính quyền, lấy
đó làm chỗ dựa cho ḿnh.
Năm 1648, trong trận
đánh lớn với quân Chúa Trịnh, họ Nguyễn bắt
được 3 vạn tù binh, và Chúa quyết định
cho số quân lính bị bắt đó vào vùng đất từ
Quảng Nam vào Nam, cấp cho canh ngưu điền khí, chia
ra từng hộ, từng xóm, tính nhân khẩu cấp
lương thực để họ khai khẩn đất
hoang.
Năm 1655, trong lần tiến
quân vượt sông Gianh ra đánh 7 huyện phía Nam sông Lam,
Chúa Nguyễn bắt khá nhiều nông dân ở Nghệ An và
đưa họ vào khẩn hoang ở Quảng Nam.
Ngoài ra, nhà Nguyễn dùng lực
lượng quân đội để khẩn hoang, mà tại
Phú Yên nay vết tích c̣n lại một số địa danh
như núi Dinh Đồn thuộc xă An Ninh Tây, Đất
Đồn thuộc xă Xuân Lănh, huyện Đồng Xuân.
Với một lực
lượng khai hoang khá hùng hậu như trên, cùng với những
chính sách khuyến khích về kinh tế, Chúa Nguyễn nhanh
chóng biến Phú Yên trở thành vùng đất trù phú, dân
cư đông đúc. Chính v́ lẽ đó mà năm 1629, phủ
Phú Yên được nâng thành dinh Trấn Biên (sau là dinh Phú
Yên) gồm 2 huyện Đồng
Xuân và Tuy Ḥa. Dinh Phú Yên là đơn vị hành chánh địa
phương cao nhất lúc bấy giờ, được
đặt ở vùng đất cần trấn giữ
nơi biên thùy.
Việc thành lập dinh
Trấn Biên không chỉ đánh dấu sự lớn mạnh
về mọi mặt về xứ Đàng Trong, mà từ thời
điểm này, Chúa Nguyễn đă dùng Phú Yên như là một
bàn đạp để Tây tiến, Đông tiến và Nam tiến.
Sau thời gian khai khẩn,
đến thế kỷ XVIII, xứ Đàng Trong có diện
tích ruộng đất khá lớn gồm: ruộng lộc
của quan lại, ruộng công của làng xă và ruộng
tư điền.
- Về ruộng lộc:
Phú Yên có ruộng quan điền và công điền công thổ,
tuy nhiên việc phong cấp ruộng lộc của xứ
Đàng Trong và của tỉnh Phú Yên hạn chế về cả
diện tích và con người. Theo thống kê của Lê Quư
Đôn trong sách Phủ biên tạp
lục th́ “những người
trực tiếp được Chúa Nguyễn cấp ruộng
lộc là mẹ Chúa 10 mẫu, chưởng cơ 5 mẫu,
cai cơ 4 mẫu, cai đội 3 mẫu 5 sào, nội đội
trưởng 3 mẫu, ngoại
đội trưởng 2 mẫu 5 sào”. Số ruộng
đất trên được lấy ở ruộng quan
điền hoặc quan đồn điền để cấp,
chứ không lấy ruộng công của làng xă.
Về sau Chúa Nguyễn tiến
hành ban cấp ruộng thờ cho những người có
công giúp Chúa mở đất và khai hoang lập ấp. Ở
Phú Yên, Ông Lương Văn Chánh được cấp ruộng
thờ ở làng Phụng Các là 4 mẫu, diện tích miếu
thờ ở xứ Đồng Tre là 0,2 mẫu, phần mộ
địa 4 khoảnh hơn 4 mẫu. Ở thôn Phú Mỹ
thuộc huyện Tuy An có ruộng văn chỉ của miếu
thờ Vua Lê Thánh Tông, diện tích đất gieo khoảng
30 giạ giống.
T́nh h́nh ruộng quan
điền của dinh Phú Yên đến những năm
đầu thế kỷ XIX vẫn c̣n tồn tại trong
nhiều làng xă. Theo sách “nghiên cứu
địa bạ Triều Nguyễn Phú Yên” của tác giả
Nguyễn Đ́nh Đầu, vào những năm 1814 – 1815,
huyện Đồng Xuân: Tổng thượng: 12/23 làng ; Tổng
trung: 4/31 làng; Tổng hạ: 2/20 làng có ruộng quan điền.
Huyện Tuy Ḥa: Tổng thượng: 3/37 làng; Tổng trung:
3/23 làng; Tổng hạ: 2/20 làng có ruộng quan điền.
Một số làng có diện tích ruộng quan điền lớn
là: thôn Thạch Thuyên: 42 mẫu; thôn Thạch Khê: 26 mẫu;
thôn Trung An: 15 mẫu; thôn Lương Phước- Trường
Đào 10 mẫu.
- Về ruộng công làng
xă, Chúa Nguyễn phỏng theo tổ chức xă hội
Đàng Ngoài, bắt nông dân biến tất cả đất
đai khai khẩn được thành ruộng công làng xă và
chia cho nông dân theo chế độ quân điền của
nhà Lê, nhưng loại ruộng này càng về phía Nam càng ít,
do vậy mà diện tích ruộng công làng xă ở Phú Yên không
nhiều.
- Về ruộng đất
tư của xứ Đàng Trong theo nhận xét của Lê Quư
Đôn th́ “xứ Quảng Nam có
25 huyện 1 châu, ruộng tư của các họ số mẫu
khá nhiều”.
Theo sách nghiên cứu địa
bạ Triều Nguyễn tỉnh Phú Yên “đến năm 1816, Phú Yên có diện tích điền
là 15.558 mẫu, trong đó ruộng quan điền có 207 mẫu,
tư điền 15.347 mẫu, tự điền 4 mẫu,
diện tích đất thổ (toàn trồng dâu) là 1.134 mẫu”.
Nhưng tùy theo nơi
cư trú mà b́nh quân ruộng đất đầu người
khác nhau, ví như thôn Quán Mới trung b́nh mỗi người
1 sào, trong khi đó làng Ngân Sơn
b́nh quân mỗi người là 4 sào, làng Phụng Các số
ruộng b́nh quân đầu người từ 1 sào đến
vài sào.
T́nh h́nh xâm canh ruộng
đất ở Phú Yên là khá phổ biến, trong tổng số
166 làng th́ đă có 146 làng có t́nh trạng xâm canh.
Về vụ mùa, tùy theo
loại đất mà nông dân trồng 1 vụ hoặc 2 vụ
lúa. Ở ruộng đất cao (đất thổ) làm 1 vụ,
người nông dân thường chọn các giống lúa chín
sớm được gặt vào cuối tháng 10. Ở vùng
đất thấp chỉ ăn nước mưa, thường
gieo trồng sớm và dùng các giống lúa muộn để
gặt vào cuối tháng 10 hoặc tháng 11.
Các giống lúa được
gieo trồng ở Phú Yên là: áo già, bạch canh, cúc, mắc
cu, mận, mống chim, nhe bâu, nhe trăng, ba trăng,
đuôi nai, g̣n, tứ quư …
Ngoài trồng lúa, nông dân xứ
Đàng Trong c̣n trồng cau, chuối, thanh long, dưa, dứa
và chăn nuôi gia súc gia cầm.
Song song với việc
khai thác đất đai để trồng lúa, các Chúa Nguyễn
triệt để khai thác tài nguyên từ rừng và biển.
- Về lâm nghiệp: các
Chúa Nguyễn triệt để khai thác các loại lâm đặc
sản quư như: dầu rái, sa nhân, mật ong, sáp ong, kỳ
nam hương, cây tô hạp, trầu.
- Về ngư nghiệp:
chú trọng phát triển nghề lưới nghề câu,
đánh bắt trong đầm
vịnh và lộng.
Với một xứ Quảng
Và theo ghi chép cuả
Cristophoro Borri năm 1621 th́ “xứ
Đàng Trong có 3 vụ lúa, đầy đủ và dồi
dào đến nỗi không ai phải
lam lũ và vất vả để sinh sống, ai cũng
sung túc”.
Khi vào Phú Yên lập nghiệp,
người dân xứ Thanh Nghệ và Quảng Nam sống
trong điều kiện kinh tế tự cấp tự túc,
do vậy họ đă sớm có ư thức h́nh thành các ngành
nghề thủ công để đáp ứng nhu cầu cuộc
sống và lao động.
Hiện nay, Phú Yên có khoảng
trên chục nghề truyền thống, trong đó một số
nghề đă h́nh thành các làng nghề như: làng nghề dệt
lụa ở G̣ Duối (Sông Cầu) Phường Lụa
(Tuy An); dệt chiếu ở xóm Gơ, xóm Gành, Phú Tân; nghề gốm
ở Quảng Đức, Phụng Nguyên; nghề đan lát
ở Vinh Ba; nghề chằm nón ở Phú Diễn, An Định;
nghề làm muối ở Tuyết Diêm, Trung Trinh, Lệ Uyên.
Có một số làng nghề đă nổi tiếng khắp
nơi như dệt lụa, dệt chiếu, mía đường.
Sách Đại
Những hộ làm nghề
dệt chiếu được Nhà nước quản lư
khá chặt chẽ. Sách Khâm
định Đại
Nghề dệt lụa nổi
tiếng ở làng Ngân Sơn,
v́ thế mà từ lâu dân gian Phú Yên có câu:
Đất Cù Du là
nơi chiếu tốt.
Lụa nào tốt bằng
lụa Ngân Sơn.
Nghề làm mía đường
ở Phú Yên cũng như xứ
Đàng Trong rất phát triển, được lái buôn
Proive, người Pháp thế kỷ XVII ghi nhận: “ở Đàng Trong người ta
có thể chở một lúc 80 thuyền đường, c̣n
nghề làm đường th́ phát triển đa dạng,
người th́ trồng mía,
người th́ mua mía về ép thành nước để
nấu lần thứ nhất đổ vào các chum vại,
rồi đem đun lần thứ hai, đến khi
đường đóng chắc lại như muối mới
đưa đi tinh chế và bán ra ngoài”.
Đặt biệt, nghề
kim hoàn ở Phú Yên h́nh thành từ khá sớm. Theo ghi chép của
Lê Quư Đôn trong Phủ biên tạp
lục th́ “thuộc kim hộ
hai tổng Đồng Xuân thượng hạ là 59 người,
và toàn Phủ có hơn 40 thôn phường kim hộ”.
Khi sản phẩm đă
làm ra được nhiều th́ nhu cầu trao đổi hàng
hóa sản phẩm được đặt ra, và từ
đó nhiều chợ quê được h́nh thành. Sách Đại
Chợ Phú Yên hợp theo
lệ 1 tháng 6 phiên. Các chợ nằm gần kề thường
tổ chức phiên chợ luân phiên, nhằm để hàng
hóa lưu thông theo một chu
tŕnh khép kín.
Nguyễn Đức
Nghinh trong bài viết: mấy nét phác thảo về chợ
làng qua những tài liệu thế kỷ XVII và XVIII cho biết:
“trong xóm làng thường có chợ,
cứ hai ngày họp 1 phiên, hàng hóa bày la liệt”.
Cùng với người
Việt, người Hoa lập phố xá ở chợ Lẫm
(thôn Mỹ Huân, xă An Hiệp), chợ Đèo để buôn
bán.
Việc buôn bán ở chợ
đều nằm trong tay phụ nữ và chỉ có phụ
nữ mới làm việc này và tỏ ra rất thành thạo.
Do vậy, Koffer viết về
xứ Đàng Trong cho biết: ”phụ
nữ kiếm ra được nhiều lăi trong việc
buôn bán ở chợ hay trong các cửa hiệu của các lái
buôn”.
Nhà nước phong kiến
cũng rất quan tâm hoạt động của chợ,
nên trong tờ chiếu đại xá năm 1649 có ghi: “các chợ nhỏ mới hợp ở
các xứ huyện, xă cùng với nơi bến đ̣ ngang,
nhân dân cùng xứ, làng xă đi lại không có lệ thuế
ǵ th́ viên chức cai quản hạt đó không được
thu thuế và Thừa ty không
được lấy tiền biểu tân”.
Đến năm 1650, tiền biểu tân mới
được thu với mức: chợ lớn 5 tiền,
chợ vừa 4 tiền và chợ nhỏ 3 tiền.
Đến năm 1660 các loại
thuế chợ phải nộp: hàng trâu ḅ mỗi con nộp
10 đồng, hàng bán lợn mỗi con nộp 2 đồng,
các hàng khác mới bày 1 đồng.
Ngoài việc phát triển
chợ ở miền xuôi, tại miền núi Nhà nước
phong kiến tổ chức các giao dịch trường
để trao đổi hàng hóa. Phú Yên có giao dịch trường
nguồn Hà Di và giao dịch trường nguồn Thạch
Thành.
Song song với việc
phát triển thương mại trong nước, việc
buôn bán với người ngoài nước ở Đàng
Trong dưới thời Chúa Nguyễn cũng rất thịnh
hành. Do các chúa Nguyễn không đóng cửa bất cứ một
quốc gia nào, nên nhiều quốc gia ở Châu Âu, Châu Á
đă đến xứ Đàng Trong mua bán, nhiều nhất
là người Hà Lan, Trung Quốc và Nhật Bản. Các
thương lái vào Việt Nam mua đường, lâm thổ
sản, tơ lụa, yến sào, trầm hương, cau,
vàng, tôm khô, hải sâm…
Lê Quư
Đôn cho biết thêm: “hóa vật
sản xuất ở các phủ Thăng Hoa, Điện Bàn,
Quảng Ngăi, Quy Nhơn, B́nh Khang và dinh Nha Trang đi bằng
đường thủy, đường bộ hoặc
đi ngựa đều hội tụ về phố Hội
An, v́ thế người khách phương Bắc đều
đến tụ tập ở đây để mua về
nước”.
LiTana trong tác phẩm Xứ Đàng Trong, lịch sử
kinh tế – xă hội Việt
Mặt hàng vàng được các
lái buôn nước ngoài ưa chuộng. Phú Yên là nơi có nhiều
làng kim hộ, nên đă đóng góp một số lượng
vàng đáng kể.
Các sản
phẩm tàu buôn nước ngoài bán cho người Đàng
Trong là các thứ gấm vóc, vải lụa, giấy, vàng bạc,
bút mực, kim tuyến, y phục, kim, cúc áo, đồ đồng,
sành sứ, cam, chanh, lê, táo, bột ḿ, trứng muối,
tương ngọt, đậu phụ, lá chè, nấm
hương, mộc nhĩ.
Đóng góp đáng kể
cho ngoại thương phủ Phú Yên là cảng biển Vũng
Lấm. Theo quy định của Chúa Nguyễn, tàu buôn vào cảng
Vũng Lấm để buôn bán th́: “phải nộp các thổ vật, c̣n thuế đến,
thuế về th́ định lệ theo thứ bậc”.
Về phương thức
mua bán, các lái buôn chủ yếu thanh toán bằng bạc, cách
trả một bạc ăn mấy hàng hoặc bằng
vàng. Song cách trả thông dụng nhất là dùng tiền
đúc, đó là loại tiền duy nhất của xứ Đàng
Trong. Sự phổ biến và thích dùng tiền đúc tại
Phú Yên được chứng minh qua các phát hiện tiền
cổ tại thôn Đông Phước, xă Ḥa An, huyện Phú
Ḥa. Trong gần 300 kg tiền cổ, 80 niên hiệu tiền
th́ có 60 niên hiệu tiền thuộc các triều đại
phong kiến Trung Quốc như Đường, Tống,
Minh, Nguyên; hai niên hiệu tiền Triều Tiên; một niên
hiệu tiền Nhật Bản; số c̣n lại là niên hiệu
tiền thuộc các triều đại phong kiến Việt
Nam như thời Lê, Nguyễn, Tây Sơn…
Có thể nói trong hai thế
kỷ XVII và XVIII, việc buôn bán với nước ngoài của
xứ Đàng Trong có ảnh hưởng và mang tầm quan
trọng đặc biệt, nên LiTana đă có nhận xét rất
có lư rằng “lần đầu
tiên trong lịch sử Việt Nam, sự thịnh vượng
của một Quốc gia phụ thuộc vào thương
gia chứ không lệ thuộc vào nông dân”.
Tuy vậy mục đích
mua bán của các Chúa Nguyễn không nhằm làm cho kinh tế
phồn vinh mà chủ yếu là để mua những hàng
hóa cần thiết phục vụ cho cuộc sống xa hoa.
II. Tổ chức bộ
máy chính quyền và quân đội:
Để giữ vững
biên thùy và phát triển kinh tế đời sống, các Chúa
Nguyễn tích cực xây dựng bộ máy chính quyền và tổ
chức quân đội..
- Về bộ máy cấp
Phủ: năm 1611 phủ Phú Yên được thành lập
gồm hai huyện Đồng Xuân và Tuy Ḥa, Văn Phong
được cử giữ chức Lưu thủ. Mỗi
phủ th́ Chánh bộ, Khán lư, Đề đốc, Đề
lĩnh, Phủ kí lục, Phủ thư kư mỗi chức một
viên.
Năm 1629 phủ Phú Yên
được đổi thành dinh Phú Yên. Về mặt hành
chính cấp Dinh do quan Lưu Thủ đứng đầu,
về mặt quân sự do quan Tuần Thủ chỉ huy.
Như vậy, năm 1629, phó tướng Nguyễn Phúc Vinh
đảm nhận hai chức vụ trên.
Năm 1744, Vơ Vương
chia đặt xứ Đàng Trong thành 12 dinh, Phú Yên gọi
là Phú Yên dinh. Các dinh đều đặt quan Trấn Thủ,
Cai bạ và Kư lục để cai trị.
- Về bộ máy cấp
huyện: thời Chúa Thái Tổ (chúa Nguyễn Hoàng) vẫn
giữ các cơ quan hành chính do triều Lê đặt ra. C̣n
theo sách Phủ Biên tạp lục
của Lê Quư Đôn th́ “họ
Nguyễn trước mở mang cơi Nam, đặt ra phủ
huyện, các nơi gần núi rừng dọc theo sông biển
thường đặt làm thuộc, cho các phường,
thôn, nậu, man lẻ tẻ lệ vào, đặt nhân viên
coi ốp, cũng giống như các Tổng, nhưng không gồm
chức ấy vào quan địa phương, lại cho thuộc
về nội phủ”.
Năm 1615, chúa Nguyễn
Phúc Nguyên bắt đầu phân định chức vụ của
phủ huyện. Theo đó, ở phủ có tri phủ, huyện
có tri huyện. Tri phủ, Tri huyện giữ việc tố
tụng; thuộc viên có Đề lại coi việc văn
án, tứ tụng; Thông lại chuyên việc tra khám; huấn
đạo, lễ sinh lo việc tế tự.
Mỗi huyện th́ cai tri
1 viên, thư kư 1 viên, duyên lại 2 viên.
Về bộ máy chính quyền
cấp cơ sở gồm có xă và thuộc. Đứng
đầu xă là Xă trưởng; đứng đầu thuộc
là Thuộc trưởng. Mỗi thuộc đề lĩnh,
cai thuộc mỗi chức 1 người, kư thuộc 2
người, cai tổng 2 người, duyên lại 2 người.
Năm
1725, Chúa Túc Tông quy định: Thuận Hóa cũng như Quảng
Năm thứ 7 (Bảo
Thái) 1726, Chúa cho tra xét các phủ xứ Quảng
- Thuộc có 500 người
trờ lên được đặt Cai thuộc, Kư thuộc
1 người.
- Thuộc
có từ 400 người trở xuống được
đặt Kư thuộc 1 người.
- Từ 100 người
cho đến 10 người được đặt 1
Tướng thần như lệ các nậu, nếu Tướng
thần không có người nộp đơn xin làm th́ cho
trong thuộc bầu ra.
Tuy vậy, các chúa Nguyễn
quy định: Thuộc không được tồn tại
trong thời gian quá 7 năm.
Đặc điểm
chung của bộ máy quan lại xứ Đàng Trong là bên cạnh
các Ty, Bộ c̣n có cả một hệ thống quan lại,
nhân viên chuyên giữ việc thu thuế cho Nhà nước gọi
là “ bản đường quan”
với số lượng đông đến hàng ngh́n
người.
Nói về bộ máy quan lại
cồng kềnh của xứ Đàng Trong, Lê Quư Đôn
đă viết: “hai xứ Thuận
Quảng quan bản đường chính ngạch đă nhiều,
số đặt thừa ra cũng lắm, số tướng
thần th́ lại nhiều gấp bội, không thể nào
đếm hết được. Đất Thuận Quảng
chỉ có 2 trấn mà họ Nguyễn đặt quan lại,
thuộc viên và hàng Hương trưởng kể có hàng
ngh́n người, nhũng lạm quá lắm “.
Về cách tuyển quan lại,
lúc đầu họ Nguyễn theo chế độ tiến
cử trong hàng ngũ con em quư tộc công thần hay những
người học giỏi ở các địa
phương.
Về bổng lộc,
các chúa nhà Nguyễn hạn chế việc ban cấp ruộng
đất làm bổng lộc, mà phần lớn quan lại
được cấp dân phu để thu tiền thuế
gọi là tiền ngụ lộc. Các quan thu thuế
được phép thu thêm một số tiền làm ngụ
lộc theo quy định cứ 1000 thăng tô thuế th́
được thu thêm 2 tiền và nửa thăng gạo, “hết thảy các bổng lộc
đều lấy vào của dân”.
Về quân
đội chúa Nguyễn chia làm 3 loại: quân Túc vệ
chuyên bảo vệ thành Phú Xuân và hộ vệ chúa. Quân chính
quy đóng ở các dinh. Quân địa phương gọi
là thổ binh, thuộc binh được các quan Trấn thủ,
Lưu thủ lấy dân địa phương để
canh giữ và trấn áp các cuộc nổi dậy của
dân địa phương. Số binh ấy rất đông
nhưng không được trả lương, họ chỉ
được miễn sưu thuế.
Phủ Phú Yên có đội
tiền ngự, thuộc về đấy là các thuyền
an binh, đội nhất, đội nh́, đội tam,
đội tứ 5 thuyền.
Về lề lối làm
việc: các quan Trấn thủ, Lưu thủ làm việc mỗi
ngày 4 giờ, trong đó có 2 giờ buổi sáng và 2 giờ
buổi chiều. Công việc chủ yếu là xét xử.
H́nh phạt cao nhất thời kỳ này dành cho tội gian
dối, trộm cướp và ngoại t́nh.
Sau khi củng
cố thế lực vững chắc ở vùng đất
Thuận Quảng, năm 1632, Chúa Hy Tông bắt đầu
ban hành phép duyệt tuyển, nhằm chia dân từng hạng
để đánh thuế và tuyển binh. Theo lệ cứ
6 năm 1 lần tuyển duyệt lớn, 3 năm 1 lần
tuyển duyệt nhỏ, đến tháng 6 th́ duyệt tuyển.
Các địa phương lập trường tuyển có
quan văn vơ do Trung ương phái đến duyệt tuyển.
Phú Yên có 1 trường tuyển.
Tuy vậy, xứ Đàng
Trong “đến năm 1669,
người dân xứ Quảng chưa biết thuế là
ǵ, th́ đến thời cầm quyền của chúa Nguyễn
Phúc Khoát (1730- 1765) các thứ thuế mới bắt đầu
áp dụng chặt chẽ”.
Nguồn thu thuế Phú Yên gồm
ba loại chính là: thuế đinh, thuế điền và thuế
tạp dịch.
Về thuế đinh:
hai huyện Đồng Xuân và Tuy Ḥa các hạng chính hộ,
khách hộ đều nộp như các phủ, mỗi
đinh nộp thuế tiền gạo tám 6 đồng, tiền
sưu 6 tiền, tiền nước trà 12 đồng, tiền
đầu quan 8 đồng.
Tuy vậy, tùy theo hạng
dân đinh và công nghệ, sản vật mà Chúa Nguyễn có
những quy định riêng, ví như phường Tân An hạ,
chính hộ và khách hộ mỗi người nộp 2 tiền;
thuộc Tân Dân chính hộ mỗi người nộp 2 tiền,
khách hộ 1 tiền; các nậu tơ trắng, lụa th́ sản
phẩm nộp thay bằng tiền.
Ngoài các khoản thuế
trên, dân đinh c̣n phải nộp tiền cơm mới
(thường tân), lễ tết (tiết liệu) gạo
nước (cước mỡ), tiền sưu, tiền
đầu quan, tiền cưới, thuế lính…. Riêng
trường biệt nạp thuộc kim hộ, hạng
tráng, hạnh quân, hạng dân, hạng lăo, hạng bất cụ,
hạng cùng, hạng đào
đều phải nộp thuế, trừ tiền tiết liệu.
LiTana trong “xứ Đàng Trong, lịch sử
kinh tế- xă hội Việt
Nơi |
Người
đăng hộ |
Người nộp
thuế |
Trung b́nh mỗi
đinh % |
Quan |
Điện Bàn Thăng Hoa Quảng Ngăi Quy Nhơn PhúYên B́nh Khang Diên Khánh |
29.705 19.980 22.246 24.227 6.804 5.102 3.057 |
16.995 12.696 8.711 10.815 4.439 3.414 1.806 |
57% 63% 39% 45% 65% 66% 59% |
4,07 4,15 3,78 8,62 4,25 2,69 3,25 |
Về thuế
điền: đây là nguồn thu quan trọng nhất của
chúa Nguyễn, do vậy, năm 1618, Chúa Nguyễn Phúc Nguyên
sai quan đi khám đạc ruộng đất hiện có.
Năm 1669, chúa Nguyễn
Phúc Tần “cho quan đi khám
đạc ruộng công, ruộng tư, Nhà nước thu
thóc tô dịch làm hạng nhất, hạng nh́, hạng 3
cùng đất khô và đất băi màu cho vào sổ sách,
cho ruộng công đều trả về xă, cho chia đều
mà cày cấy và nộp thuế”.
Ruộng công, ruộng
tư được chia làm ba hạng để nộp thuế.
Hạng nhất nộp 40 thăng thóc và 8 hộc gạo, hạng
nh́ nộp 30 thăng thóc và 6 hộc gạo, hạng 4 nộp
20 thăng thóc và 4 hộc gạo.
Ruộng hoang mới khai
khẩn nộp mỗi mẫu 3 tiền.
Quan đồn điền
th́ cho thuê với giá 3 tiền đến 1 quan hoặc thu tô
từ 1 quan 3 tiền đến 1 quan 9 tiền.
Quan điền thu bằng
tiền hoặc bằng thóc không nhất định.
Năm 1767, tướng
thần lại ty thu ở hai huyện Đồng Xuân
và Tuy Ḥa Phủ Phú Yên ruộng
thực trưng là 128.940 mẫu, thóc thuế 128.994 thưng
7 cáp, tiền nộp thay vào ruộng bỏ hoang, ruộng
xâm canh, ruộng mới khai hoang, mới trưng, đất
trồng dâu, phù sa không tính vào.
Để có thêm tiền
tiêu dùng, các chúa nhà Nguyễn đặt thêm nhiều loại
thuế phụ thu, theo đó, cứ 3 thăng thóc th́ phụ
thu thêm 3 đồng. Ruộng mùa và đất khô không chia thứ
bậc mỗi mẫu phụ thu 3 tiền, không đủ mẫu
thu 1 tiền.
Năm 1769, chế độ
tô thuế từ Quảng
Theo thống kê của
LiTana trong “xứ Đàng Trong lịch
sử kinh tế – xă hội Việt
Vùng |
Gạo (Thăng) |
Đồng
|
Tỉ Lệ |
Điện bàn Thăng Hoa Quảng Ngăi Quy Nhơn Phú Yên B́nh Khang Diên khánh |
25.805 53.689 22.382 41.125 8.285 5.628 5.616 |
164.145 383.508 100.740 317.228 49.059 35.572 26.324 |
1/6,34 1/4.41 1/4,5 1/7,71 1/5,92 1/6,32 1/4,68 |
Sau năm
1769, thuế phụ thu đất ở xứ Quảng Nam
lại tiếp tục tăng, cứ 1000 thăng thóc th́ phải
đóng 20 thăng gạo và 180 đồng tiền thuế.
Hai huyện Đồng Xuân và Tuy Ḥa gạo cung đốn
theo đầu mẫu là 106 bao 17 thưng 9 cáp; tiền là 81
quan, 7 tiền 39 đồng.
Ngoài ra, các chúa nhà Nguyễn
c̣n thu thuế điền bộ, ruộng bỏ hoang, ruộng
xâm canh, ruộng mới cày, đất trồng dâu, đất
trồng mía, thu thóc ruộng quan điền trang, điền
trang, quan đồn điền, tiền cung đốn, tiền
nộp thóc vào kho, tiên bao mây, lễ tŕnh diện, lễ
thường tân, tiền tiết liệu, nộp cót tre
để làm kho thóc. Theo quy định “Phủ Phú Yên hai huyện thu 374 tấm lệ dùng vào
kho, lại 547 tấm và 1 phần cho nộp bằng tiền
109 quan, tiền 30 đồng”.
Về các loại thuế
khác tỉnh Phú Yên có lệ thuế thuyền, thuế
đánh bắt hải sản bằng lưới và câu, thuế
muối, thuế lâm thổ sản, thuế đầu nguồn,
thuế vịnh, thuế đ̣, thuế vàng, thuế yến
sào, thuế tàu thuyền nước ngoài vào Vũng Lấm
buôn bán. Ở các nơi này Chúa Nguyễn đặt sở Tuần
ty để thu thuế.
Ngoài gánh nặng về
thuế, nhân dân Phú Yên và xứ Đàng Trong thường
xuyên đối phó với thiên tai, cơ cực. Các năm
1624, 1641, 1671, 1676, 1688, 1698, 1705, 1706, 1712, 1730, 1752, 1768 t́nh trạng
mưa băo và hạn hán gây thiệt hại nặng về mùa
màng. Riêng năm 1641, trời hạn lâu ngày, lúa má khô héo, giá gạo
tăng vọt, mỗi đấu gạo giá 60 đồng
tiền.
IV. Đời sống
văn hoá vật chất và tinh thần:
Bên
cạnh duy tŕ tư tưởng truyền thống Tống
nho, đến thế kỷ XVI, XVII, vua chúa, quư tộc
đua nhau tôn thờ đạo phật và xây dựng chùa
chiền. Việc trùng tu chùa cũ, xây dựng chùa mới
được tiến hành hết nơi này đến
nơi khác. Trong bối cảnh đó, tại xứ Đàng
Trong, các Chúa khuyến khích nhân dân xây dựng lại chùa,
đúc tượng thờ phật, đồng thời mời
các thiền sư Trung Quốc đến xứ Đàng
Trong truyền đạo, trong đó có phái Lâm Tế vào
đất B́nh Định và Phú Yên. Các nhà sư truyền
đạo ở Phú Yên đời chúa Nguyễn Phúc Tần
(1648 – 1687) và Nguyễn Phúc Trăn (1687 – 1691) có Tế Viên ḥa
thượng và Thọ Viên ḥa thượng, húy là Nguyễn
Thiều.
Ngôi chùa đầu tiên xây
dựng tại Phú Yên là chùa Hội Tôn, nay thuộc huyện
Tuy An do Tế Viên ḥa thượng sáng lập và trụ tŕ
(về sau chùa Hội Tôn dời về núi Sơn Trà, xă An Thạch
lấy tên là chùa Cổ Lâm). Sau chùa Hội Tôn nhiều chùa
khác ở Phú Yên được xây dựng như chùa Kim
Cang, chùa Từ Quang, chùa Bảo Tịnh, chùa Hộ Sơn,
chùa Viên Quang, chùa Vĩnh Phước..v..v…
Các nguồn tài liệu lịch
sử cho biết, trong số những người theo
đạo phật do Tế Viên hoà thượng truyền dạy
có một người thành danh hơn cả là thiền
sư Liễu Quán, người làng Bạc Má, huyện đồng
Xuân.
Trong khoảng các thế
kỷ XVI, XVII đạo giáo ở xứ Đàng Trong cũng
phát triển khá mạnh và được các chúa sùng mộ.
Việc tu tiên, luyện đan rất thịnh hành. Tại
Phú Yên có một số thiền sư như Liễu Quán,
Giác Ngộ có phép túc thông đi nhanh như gió, chân cứng
như sắt.
Vào đầu thế kỷ
XVII một tôn giáo mới được truyền vào nước
ta đó là Thiên chúa giáo. Năm 1615, các giáo sĩ Ḍng Tên thành lập
đoàn truyền giáo ở Đàng Trong và trong khoảng thời
gian từ 1615 đến 1625 có 21 giáo sĩ hoạt động
tại Đàng Trong. Đến năm 1639, Đàng Trong
đă có 15.000 người theo đạo Thiên chúa. Tại
Phú Yên, giáo sĩ phương Tây đến truyền giáo
đầu tiên là Franscois Buzoni. Ngày
Để truyền đạo,
các giáo sĩ phương Tây đă dùng chữ cái la tinh phiên
âm ra tiếng việt để tiện việc biên soạn
và rao giảng giáo lư Thiên chúa. Alexandre de Rhodes là người
có công lớn trong việc biến chữ la tinh thành chữ
quốc ngữ.
Về chế độ
giáo dục và thi cử ở Đàng Trong giống như ở
Đàng Ngoài, nhưng số người theo nghề cử
học ít hơn. Trong gần 200 năm thống trị, các
chúa Nguyễn chưa lần nào mở một kỳ thi
tương tự thi Hội, thi Đ́nh ở Đàng Ngoài,
và người dân Phú Yên trong hai thế kỷ XVII và XVIII rất ít người đỗ đạt
ra làm quan.
Cùng với sự thâm nhập
và phát triển các đạo giáo, các sinh hoạt văn hóa cũng
h́nh thành, nhằm đáp ứng nhu cầu của nhân dân ở
một vùng đất mới.
- Về ăn của xứ
Đàng Trong những năm đầu thế kỷ XVII
được Cristophoro Borri mô tả trong tác phẩm xứ
Đàng Trong năm 1621 như sau: “ thức ăn thông thường nhất của
người Đàng Trong là cơm, và thật là điều
kỳ lạ, toàn lănh thổ có rất nhiều thứ gà, vịt,
cá, trái cây đủ loại, vậy mà bữa ăn ngon nhất
vẫn là cơm, họ xới thật nhiều cơm ngay
khi ngồi vào mâm, rồi chỉ gắp sơ sơ và nếm
náp các món thịt như để theo nghi lễ”
Người Đàng Trong
ăn cá nhiều hơn thịt và thường dùng loại
nước mắm (Borri gọi là balaciam). Theo ông “thứ nước cá này mà dùng một
ḿnh th́ không nuốt được, nhưng được
gợi nên hương vị và kích thích t́ vị để
ăn cơm vốn nhạt nhẽo và không có mùi vị nếu
không có nước đó”.
Người Đàng Trong
“ngồi trên đất để
ăn, chân xếp lại, trước một cái bàn tṛn (cái
mâm) cao ngang bụng, vợ chồng cha con cùng ăn chung một
mâm, và họ dùng những chiếc đũa nhỏ rất
nhẵn nhụi, họ cầm ở giữa các ngón tay và gắp
rất khéo, rất sành sỏi”.
Tuy vậy, việc ăn
uống c̣n mang nặng tính giai cấp, chủ nhà ăn
trước, tiếp đến là gia nhân, sau cùng là những
người đầy tớ.
Người dân xứ
Đàng Trong rất thích ăn trầu.
Về uống, người
Đàng Trong uống rượu và nước trà.
Về y phục do “xứ Đàng Trong có nhiều thứ
lụa đến nỗi dân lao động và những
người nghèo cũng dùng hàng ngày và điều này cũng
không có ǵ lạ v́ xứ Đàng Trong là nơi trồng dâu
nuôi tằm phát triển.
Phụ nữ ăn mặc thường
giản dị, họ không để lộ phần nào trong
thân thể, ngay cả những lúc mùa hè nóng bức nhất.
Họ mặc tới 5 hay 6 váy lụa trơn, cái nọ chồng
lên cái kia tất cả đều có màu sắc khác nhau. C̣n
trên thân ḿnh th́ họ khoác vắt chéo như bàn cờ với
nhiều màu sắc khác nhau, phủ lên trên tất cả một
tấm voan rất mịn và rất
mỏng cho người ta nh́n thấy tất cả màu sắc
sặc sỡ, nhưng không kém phần trịnh trọng và
giản dị.
Phụ nữ để tóc xơa và rủ xuống vai,
có người để tóc dài chấm đất, v́ theo họ
tóc càng dài càng đẹp.
Đàn ông th́ không nai nịt nhưng quàn cả một
tấm rồi cũng thêm 5 hay 6 áo dài rộng. Tất cả
đều bằng lụa, màu sắc khác nhau với ống
tay dài và rộng như các ống tay của các tu sĩ; c̣n
từ thắt lưng trở xuống th́ đều sắp
đặt các màu rất khéo và rất đẹp, nên khi họ
ra đường th́ phô trương mùa sắc hài ḥa và rất
đẹp.
Đàn ông cũng có tục để tóc dài như
đàn bà, và cũng đội nón, nhưng người có
râu th́ rất hiếm. Người thuộc hạng quư phái
th́ thường để móng tay dài, coi đó là dấu hiệu
của sự quư phái và để
chứng tỏ ḿnh khác với
giới lao động thợ
thuyền. Trong lễ hội đàn ông mặc áo dài the
đen, đầu đội khăn đóng. Cả đàn
ông và đàn bà đều ưa cầm quạt.
Đàn ông ở xứ Đàng Trong không đi dép,
đi giày, cùng lắm họ chỉ dùng một miếng da
buộc mấy dây lụa và khuy trên mu bàn chân để cho
bàn chân không bị đâm”.
Dưới thời Chúa
Nguyễn Phúc Chu việc ăn mặc được quy
định thống nhất trong cả xứ “người nào c̣n mặc quần
áo theo kiểu người Khách (người Trung Hoa) th́ nên
sửa đổi lại theo thể chế của nước
nhà. Y phục thông dụng là dùng vải lụa, chỉ có
quan chức mới cho dùng xen the là trừu đoạn, c̣n gấm
vóc và các thứ hoa văn rồng phượng th́ nhất
thiết không được dùng. Thường phục th́
đàn ông, đàn bà dùng áo cổ đứng ngắn tay, cửa
ống tay hoặc hẹp hoặc rộng tùy tiện. Áo th́
từ hai bên nách trở xuống phải khâu kín không cho xẻ
mở. Duy đàn ông muốn mặc cổ áo tṛn và hẹp
tay cho tiện làm việc th́ cũng được.
Khi lễ phục th́ dùng áo cổ đứng, tay dài,
vải xanh chàm hoặc vải đen hay vải trắng tùy
nghi, c̣n các bực viền cổ và kết lót th́ đều
theo như điều hiển dụ”
Về nhà ở được
làm bằng gỗ, song có hai thứ gỗ được
ưa thích và hay dùng là gỗ mun và gỗ lim.
Về kiến trúc, nhà
đều dựa vào hàng cột cao, chắc và đóng rất
sâu rồi lắp ván, nhưng người ta cũng có thể
tháo ra và thay bằng những tấm phên liếp bằng
tre, kỹ thuật đan rất tài t́nh để mùa nắng
không bị nóng bức, mùa mưa không bị lạnh.
Xứ Đàng Trong dù nhà
giàu hay nghèo, người dân vẫn giữ 3 cách ngồi là:
ngồi trên chiếu trải dưới sàn nhà; ngồi trên
thứ giây bố hay giây da căng thẳng có trải chiếu
nhỏ và mịn hơn, dành cho người đáng kính; và
ngồi trên phản dành cho các quan và bậc chức vị bản
địa.
Về
tính t́nh, người xứ Đàng Trong “dịu dàng, lịch thiệp, thân mật, thích xă giao,
trọng khách, ăn ở giản dị, đoàn kết,
đối xử thành thật trong sáng, nhường cơm
xẻ áo cho nhau, có tính quảng đại, hay bố thí cho
người nghèo, kính trọng người già nua tuổi
tác, coi trọng các lễ tục”.
Về hôn nhân, người
dân ở Phú Yên tiến hành theo lục lễ gồm: xem mặt,
đi chơi, đi nói, đi hỏi, cầu giá và lễ
cưới.
Tuổi
thành hôn nam nữ xứ Đàng Trong theo ghi chép của Vallet
vào thế kỷ XVII th́ con trai 18 tuổi mới được
lấy vợ, nhưng con gái 12 tuổi được lấy
chồng. Xưng hô giữa vợ chồng là mày- tao.
Về tang lễ có: lễ
mục dục, nhập quan, thành phục, động quan và
di quan. Y phục trong tang lễ hoàn toàn là màu trắng.
Trong phong tục chôn cất
người chết th́ phần lăng mộ ở Phú Yên
có h́nh dáng khác lạ so với các nơi. Mộ kích thước
lớn, có h́nh hoa sen được cắt thành hai và
được đặt trên 1 phiến đá trên mộ.
Có nơi hoa sen được cách điệu như một
cái yên ngựa, nhằm bày tỏ sự tôn sùng đạo phật
của người dân Phú Yên.
Việc cúng người
chết trong tuần chung thất (49 ngày) gọi là cúng
cơm, sau thời gian trên, cúng cơm vào ngày sóc hoặc ngày
vọng cho đến măn tang.
Trong thời gian để
tang, nếu có tháng nhuận vẫn tính là 24 tháng, không tính
theo ngày mất nên trong dân gian Phú Yên có câu “đám giỗ tính ngày, làm tuần tính tháng”.
Ở Phú Yên chôn cất
người chết là vĩnh viễn, không có tục cải
táng.
Bên cạnh các phong tục
tập quán, đời sống văn hóa khác cũng từng
bước được định h́nh.
Về tín ngưỡng:
người dân ở Phú Yên có tín ngưỡng thờ thần
tại gia và tín ngưỡng thờ thần cộng đồng.
- Tín ngưỡng thờ
thần tại gia có: thờ cúng Tổ tiên, ông Táo, ông Địa,
(thổ công).
- Tín ngưỡng thờ
thần cộng đồng gồm nhiều loại: đó
là tín ngưỡng thờ Đương cảnh/ Bổn cảnh
thành hoàng, thờ những vị thần ở nơi cố
hương đă phù trợ và giúp đỡ lưu dân từ
Thanh Nghệ vào Phú Yên lập nghiệp như thần Cao
Các, Bạch mă Thái Giám, Phi vận Tướng quân, Tứ vị
Thánh Nương, thờ các vị thần có nguồn gốc
của người Chăm đă được vật hóa
như Thiên Y A Na; thờ các vị thần có công khai phá
đất Phú Yên như Lương Văn Chánh, Tiên hiền,
Hậu hiền; thờ các vị thần có gốc từ
Trung Quốc như: Quan Công, Thiên Hậu thánh mẫu, Kỷ
Tín và thờ các vị nhiên thần như: Hà Bá, cá Voi, ông
Nược, ông Rái…
Để thờ cúng các
vị thần nêu trên, nhân dân lập đ́nh, lẫm,
lăng, miếu.
Về lễ tết có: tết
nguyên đán, tết nguyên tiêu, tết thanh minh, tết
đoan ngọ. Và hàng năm nhân dân theo lệ xuân cúng thu tế cúng các vị
thần.
Để
làm phong phú hơn đời sống văn hoá tinh thần,
bên cạnh sử dụng những truyền thống
văn hóa nơi cố hương, vào vùng đất mới,
người dân Phú Yên đă vận dụng và phát triển
các loại ḥ của vùng Thanh Nghệ thành ḥ khoan; sáng tạo
tṛ chơi đánh bài cḥi, hô bài cḥi; phát triển loại truyện
truyền thuyết và thơ ca dân gian; h́nh thành những tri
thức bản địa. Ngoài ra cư dân việt Phú Yên
c̣n tiếp thu những yếu tố văn hóa vật chất
và tinh thần của cư dân đă sống tại nơi
này và sáng tạo những hiện tượng văn hóa mới
như tục cúng đất, tục dẫy mả lạng,
phong tục thờ cúng cá Ông.
Có thể nói từ khi
người Việt vào khai phá vùng đất Phú Yên đến
đầu thế kỷ XVIII, tuy vất vả, khó nhọc
nhưng nhờ đất đai màu mỡ và cuộc sống
an b́nh, người dân đă tích cực phát triển kinh tế,
văn hóa, xă hội và dân cư, làm cho vùng đất Phú Yên
không ngừng biến đổi về mọi mặt.
Đây là một nhân tố để các chúa nhà Nguyễn
theo gương người Chàm ngược ḍng sông Ba lên
Tây Nguyên thiết lập quan hệ với Thủy Xá, Hỏa
Xá. Về sự kiện này, các sử gia triều Nguyễn
cho biết:
- Năm 1711, các vị quư
tộc Đôn và Nga ở tại bộ tộc Nam Bàn và Trà
Lai, (giáp biên giới Phú Yên và B́nh Định) gửi các
đoàn sứ giả đến cống hiến các sản
phẩm của nước họ.
- Năm 1751, Thủy Xá và
Hỏa Xá bắt đầu nộp cống vật, theo lệ
5 năm 1 lần.
Mặt khác, các chúa nhà Nguyễn
cũng như nhà Lê trước đó dùng chính sách phân cách và
chế ngự, buộc họ quay về sống yên ở
cao nguyên và cho theo phong tục tập quán của họ,
ngăn cấm họ xâm phạm đất đai trồng
trọt ở đồng bằng. Ở các vùng biên thùy ấy,
chúa Nguyễn đặt binh pḥng ngự, buộc các tộc
người thiểu số trả thuế bằng tiền
hoặc bằng sản vật.
V. T́nh h́nh xă hội và các cuộc đấu
tranh ở Phú Yên cuối thể kỷ XVIII
Đến đời vua
Lê Thế Tông, chế độ quân chủ trở nên mục
nát, mâu thuẫn xă hội phát sinh ngày càng gay gắt, đặc
biệt là từ giữa thế kỷ XVIII trở đi,
khi mà các Chúa Nguyễn và tập đoàn quan lại phong kiến
đua nhau vơ vét của cải nhân dân để làm giàu
cho ḿnh và phục vụ cuộc sống ăn chơi xa
đọa. Trong các thôn xă, kẻ có chức có quyền biến
ruộng công thành ruộng tư, chế độ thuế
khóa nặng nề phức tạp lại thường xuyên
tăng thuế, những người có chút ít ruộng
đất tư th́ ngoài việc đóng tô thuế c̣n phải đóng các khoản tiền
khác như tiền cung đốn, tiền nộp thóc vào
kho, tiền cót, tiền dầu đèn, tiền bao mây, tiền
khoán khố, tiền cước mỡ, tiền lễ tết….
Thuế lâm thổ sản cũng có hàng trăm loại.
Dưới thời chúa
Nguyễn Phúc Thuần sự xa hoa, sa đọa lên đến
cực độ, theo ghi chép của Lê Quư đôn trong Phủ
biên tạp lục:
“ Quan viên lớn nhỏ không ai là không có nhà cửa chạm
gọt, tường vách gạch đá, the màu trường
đoạn, đồ đạc đồng thau, bàn ghế
gỗ đàn gỗ trắc, chén mâm đồ sứ đồ
hoa, yên cương vàng bạc, y phục gấm vóc, chiếu
đệm mây hoa, phú quư phong lưu, đua nhau khoe đẹp.
Người lao động cũng mặc áo đoạn
hoa bát ty và áo sa, lương, địa làm đồ mặc
ra vào thường.
Binh sĩ đều ngồi chiếu mây, dựa quả
tựa hoa, hăm chè hảo hạng, uống chén sứ bịt
bạc, nhổ ống nhổ thau, đĩa bát ăn uống
không cái ǵ là không phải hàng Bắc.
Đàn bà con gái th́ đều mặc áo the là và hàng
hoa, thêu hoa ở cổ tṛn, coi vàng bạc như cát, thóc gạo
như bùn, xa xỉ hết mực”.
Theo kư sự hải ngoại
của Thích Đại Sán, người Trung Quốc, sống
tại xứ Đàng Trong thế kỷ XVII th́ “thời bấy giờ đời
sống nhân dân thường rất khổ sở, thất
thường bữa đói bữa no. Nhà cửa của họ
cất trên băi cát, trước mặt là biển, sau lưng
là núi, tập hợp thành từng xă một, mỗi năm
thu hoạch lúa ruộng phải nộp cho xă đến 7, 8
phần 10. Mỗi lần đi đánh cá về phải nộp
cho bọn cai, trưởng xă, cho lại được bao
nhiêu hay bấy nhiêu”.
Những
mâu thuẫn xă hội tích tụ ngày càng sâu sắc và bùng nổ
thành những cuộc nổi dậy của nhân dân nhiều
nơi thuộc xứ Đàng Trong, mà tiêu biểu là cuộc
khởi nghĩa của anh em nhà Tây Sơn.
Ở miền xuôi từ
giữa thế kỷ XVIII nhiều cuộc khởi nghĩa
lẻ tẻ xuất hiện. Sử triều Nguyễn
chép: “năm 1769, trăm họ
cơ cận, trộm cướp nổi lên tứ tung,
trong cơi từ đó có nhiều việc”. Trong những cuộc
khởi nghĩa đó, cuộc khởi nghĩa của chàng
Lía trên đất Quy Nhơn có quy mô và ảnh hưởng lớn
đối với nhân dân Phú Yên.
Năm 1771, anh em nhà Tây
Sơn dựng cờ khởi nghĩa. Lợi dụng sự
mâu thuẫn và bè phái trong giai cấp thống trị, Nguyễn
Nhạc khôn khéo đưa ra khẩu hiệu” đánh đổ quần thần
Trương Phúc Loan, ủng hộ hoàng tôn Nguyễn Phúc
Dương”. Nhờ sách lược khôn khéo này mà quân Tây
Sơn đă lôi kéo và tập hợp được nhiều
tầng lớp nhân dân vào đội ngũ của ḿnh. Theo
tài tiệu của các giáo sĩ
Phương Tây đang có mặt Đàng Trong lúc bấy
giờ “cùng đi theo Tây Sơn
có những người dân từ miền núi ở giữa
hạt Quy Nhơn và Phú Yên, lính của họ có bộ phận
gồm những người thiểu số”.
Ngày nay nhiều cứ liệu
lịch sử cho biết, những người thiểu số
ở giữa hạt Quy Nhơn và Phú Yên là người Ba Na
sinh sống ở Thồ Lồ, thuộc vùng núi miền Tây
tỉnh Phú Yên. Anh em nhà Tây Sơn c̣n nhận được
sự giúp đỡ của một người Chàm sống
ở vùng Thạch Thành, phủ Phú Yên là nữ chúa Thị Hỏa.
Mùa thu 1773, lực lượng
quân Tây Sơn đă lên đến vài ngh́n người và
đánh chiếm phần lớn Phủ Quy Nhơn. Cuối
năm 1773, nghĩa quân Tây Sơn đă kiểm soát cả một
vùng rộng lớn từ Quảng Ngăi đến B́nh Thuận.
Năm 1774, chúa Nguyễn
đưa quân từ Gia Định ra đánh chiếm lại
các tỉnh từ B́nh Thuận ra đến Phú Yên.
Những
cuộc chiến tranh liên tiếp xảy ra ở Đàng
Trong là cơ hội để chúa Trịnh Sâm ở Đàng
Ngoài thừa cơ tăng cường thế lực. Với
ư đồ đó, Chúa Trịnh bèn cử tướng Hoàng
Ngũ Phúc dẫn đầu 3 vạn quân tiến vào Thuận
Quảng với mục đích giúp chúa Nguyễn quật
đổ quần thần Trương Phúc Loan và tiêu diệt
nhà Tây Sơn.
Tháng 7/1775, tướng
nhà Nguyễn là Tống Phúc Hợp đem quân đánh Phú Yên,
quân bộ đóng ở Xuân Đài, quân thủy đóng ở
Vũng Lấm, sai Tri huyện Đồng Xuân là Bạch
Doăn Triều cùng Cai đội Thạc đ̣i Nguyễn Nhạc
trả Đông cung Nguyễn Phúc Dương cho chúa Nguyễn.
Trước t́nh thế bất lợi trong đánh ra ngoài
đánh vào, Nguyễn Nhạc t́m cách ḥa hoăn với Hoàng Ngũ
Phúc, mặt khác, Nguyễn Nhạc đem cất châu báu trên
núi, rồi dời Đông cung Nguyễn Phúc Dương
đến Hà Liên, An Thái để lánh và rút quân về Quy
Nhơn xây thành, củng cố lực lượng đối
phó với quân chúa Nguyễn ở phía Nam.
Cuối năm 1775, kỵ
binh do Nguyễn Quang Sáng, Lương Văn Trực, thủy
xá Ma Khương tụ nghĩa tại núi La Hiên, đă phối
hợp với thủy quân của Lưu Quốc Hùng, Trần
Văn Nhâm hợp thành lực lượng Tây Sơn hữu
đạo, cùng 2.000 quân do Nguyễn Huệ chỉ huy từ
Quy Nhơn kéo vào đánh úp quân Tống Phước Hợp
đóng tại Phú Yên. Quân Tây Sơn đă tiêu diệt khoảng
2 vạn quân chúa Nguyễn đóng ở Xuân Đài. Cai đội
Nguyễn Văn Hiền bị chết. Cai cơ Nguyễn
Khoa Kiên bị bắt sống. Tống Phước Hợp
bỏ thành chạy.
Được tin Tống
Phước Hợp bại trận ở Phú Yên, chúa Nguyễn
điều động binh lính các nơi về ứng cứu,
nhưng đều thất bại. Bùi Công Kế từ B́nh
Khang đem quân đến bị bắt sống. Tống
Văn Khôi từ Khánh Ḥa ra bị đội quân Trung đạo
Tây sơn do Phạm Văn Tham, Lê Văn Thành và Chúa hỏa
xá Y Thuông ở Thạch Thành cùng thủy quân của Phạm
Ngạn chặn đánh, tiêu diệt 500 quân tại Đèo Cả.
Tống Văn khôi bị tử trận.
Bấy giờ Chu Văn
Tiếp đang đóng quân ở Quy Nhơn chạy vào huyện
Đồng Xuân chiếm lấy vùng Trà Rang (thuộc thôn Phú
Phong, xă An Hiệp) đặt làm đại bản doanh và bộ
chỉ huy. Với mưu đồ giúp Chúa Nguyễn
đánh lại nhà Tây Sơn, Chu Văn Tiếp đă vài lần
xuất quân, nhưng không thành. Năm 1782, được
tin thành Gia Định thất thủ, Chu Văn Tiếp rời
bỏ Phú Yên đưa quân vào Nam, từ đó đất
Phú Yên hoàn toàn thuộc về nhà Tây Sơn.
Sau khi đập tan tập
đoàn thống trị Lê-Trịnh, Nguyễn Nhạc phong
cho Nguyễn Huệ làm Bắc B́nh Vương cai quản
vùng đất từ đèo Hải Vân ra Nghệ An; phong cho
Nguyễn Lữ làm Đông Định Vương coi đất
Gia Định, c̣n ḿnh tự xưng là Trung ương Hoàng
Đế, giữ vùng đất từ Quảng Nam đến
cực Nam Trung Bộ.
Do chiến tranh tạm lắng
nên trong thời gian cầm quyền, vùng đất của
Nguyễn Nhạc cai quản nông nghiệp dần dần trở
lại b́nh thường, đời sống nhân dân bắt
đầu ổn định, ruộng đất bỏ
hoang được cày cấy lại, nhân dân không c̣n xiêu
tán. Tuy làm được một số việc, nhưng
Nguyễn Nhạc đă nhanh chóng thoái hóa, thỏa măn với
thắng lợi, thu hẹp hoài băo trong việc xưng
vương xưng đế, không nh́n thấy mưu đồ
phục hồi của Nguyễn Ánh ở phía Nam.
Ở đất Gia Định,
Nguyễn Lữ do kém tài, nên Nguyễn Ánh sau một thời
gian chạy ra Côn Đảo, đến năm 1787 trở về
chiếm lại Gia Định, và dựa vào tầng lớp
đại địa chủ, biến Gia Định thành một
căn cứ vững chắc của Nguyễn Ánh.
Sau một thời gian củng
cố vùng Gia Định, từ năm 1790, Nguyễn Ánh
liên tục đưa quân ra đánh vùng đất cai trị
của Nguyễn Nhạc.
Năm
1793, Chúa Nguyễn đưa quân đánh thành Quy Nhơn, khi
đến vịnh Xuân Đài, Nguyễn Vương sai Vơ
Tánh đem quân đánh bảo La Thai, tham đốc Tây
Sơn là Phạm Văn Điềm thua chạy, Chúa đặt
quan đường tại Phú Yên, lấy Phó tướng thủy
binh Nguyễn Văn Nhâm làm Lưu Thủ, Nguyễn Y Nguyên
làm Cai bạ, Nguyễn Văn Diệm làm Kư lục, rồi
đưa quân đánh Quy Nhơn.
Trong t́nh thế nguy ngập,
Nguyễn Nhạc cầu viện quân Phú Xuân. Bấy giờ
Nguyễn Huệ đă mất, Quang Toản lên thay, liền
sai tướng Phạm Công Hưng đem quân đánh đuổi
Chúa Nguyễn chạy về Phú Yên, rồi chiếm luôn thành
Quy Nhơn. Nguyễn Nhạc uất ức mà chết. Đất
Quy Nhơn sáp nhập vào khu vực cai trị của Quang Toản.
Tháng 3 năm 1795, tướng
Tây Sơn là Phạm Công Hưng đưa 40.000 quân đánh với
Chúa Nguyễn tại Phú Yên, quân nhà Nguyễn chống cự
không nổi rút lui về Diên Khánh.
Tháng 4/1794, Chúa Nguyễn dẫn
thủy binh đến cứu viện, nhưng thủy binh
Tây Sơn đă rút về Quy Nhơn, bộ binh rút về trấn
giữ Phú Yên.
Tháng 5/1794, Chúa Nguyễn dẫn
thủy quân ra đánh ở cửa biển Xuân Đài, sai Vơ
Tánh đánh chiếm chợ Hội An, quân Tây Sơn bỏ
đồn Hội An. Chúa Nguyễn chiếm được
đất Phú Yên.
Tháng 10/1794, tướng
Tây Sơn là Trần Quang Diệu và Lê Trung đem quân thủy
bộ vào đánh Phú Yên, quân Chúa Nguyễn rút lui về Diên
Khánh.
Năm 1795, Chúa Nguyễn
lại đem đại binh từ Gia Định ra Phú Yên.
Vơ Văn Sở đánh phá đồn Tây Sơn giết
được Đô đốc
Phượng, Đô đốc Nguyên lui về Hội
An, Cai cơ Trần Quang Diệu từ Khánh Ḥa theo
đường núi rút qua Phú Yên về Quy Nhơn.
Tháng 4/1797, Chúa Nguyễn
cùng Đông cung Hoàng tử Cảnh, Nguyễn Văn
Trương, Nguyễn Hoàng Dục lại đưa quân ra
đánh Quy Nhơn. Nguyễn Văn Trương đánh bại
Đô đốc Thiêm tại Tiên Châu. Vơ Tánh và Nguyễn
Văn Thành dẫn bộ binh đánh quân Tây Sơn ở cửa
Hội An, Đô đốc Tây Sơn tên là Hiếu phải
rút quân về La Thai (La Hai).
Tháng 6/1797, quân Tây Sơn lại
tiếp tục thua trong các trận La Qua, Trạm Dă, Thạch
Đậu, La Thai, tướng Tây Sơn là Phạm Văn
Điềm xin hàng, Chúa Nguyễn giao Phạm Văn Điềm
làm Trấn thủ Phú Yên.
Tháng giêng năm 1799, Chúa
Nguyễn đem quân đánh Quy Nhơn, Chúa giao cho Nguyễn
Văn Thành đánh lấy Phú Yên rồi đem quân tiếp ứng
với Vơ Tánh.
Cũng năm 1799, tướng
Phạm Văn Điềm đóng tại Phú Yên đầu
hàng nhà Tây Sơn. Nhà Tây Sơn bèn mộ thêm lính, sửa sang
thành vách và giao cho Phạm Văn Điềm giữ thành.
Cuộc chiến giữa
nhà Tây Sơn với Chúa Nguyễn kéo dài suốt năm 1800.
Đến năm Tân Dậu 1801, tướng Tây Sơn là Phạm
Văn Điềm đánh vào Phú Yên trong tư thế một
mất một c̣n nhưng không thu được kết quả.
Đất phú Yên hoàn toàn thuộc về Chúa Nguyễn và
đặt làm Doanh Phú Yên, có công đường và quan cai trị.
Năm 1801, Chúa Nguyễn bỏ việc thu sưu ruộng ở
Phú Yên nhằm thu phục ḷng dân ở một vùng đất
mới chiếm được.
Tóm lại, xă hội Phú Yên trong thế
kỷ XVII và XVIII là một xă hội đầy biến
động và phức tạp. Cả Đàng Trong lẫn
Đàng Ngoài, giao lưu buôn bán nước ngoài đang có chiều
hướng thuận lợi, nhưng với ư thức “trọng nông ức thương”
cố hữu, các thế lực cầm quyền không những
đă đánh mất thời cơ phát triển kinh tế
đất nước, mà c̣n đưa nước nhà
đi vào con đường khủng hoảng và thoái hóa.
Từ thế kỷ XVII
đến nửa đầu thế kỷ XVIII với ư thức
biến Đàng Trong thành một khu vực độc lập
và cát cứ lâu dài, các Chúa Nguyễn đă có những chính
sách thoáng đạt và mềm dẻo để thu hút
lưu dân khai khẩn đất hoang, kết hợp gia
cư địa phận, phát triển văn hóa, mở rộng
giao lưu buôn bán với nước ngoài.
Bắt đầu nửa cuối
thế kỷ XVIII, để có tiền ăn chơi và nuôi
“bộ máy quan lại đông
không kể xiết”, các Chúa Nguyễn đă đặt ra
hàng trăm thứ thuế chính thu và hàng chục thứ thuế
phụ thu, thêm vào đó là thiên tai, hạn hán, mất mùa liên
tiếp xảy ra, làm cho đời sống nhân dân cùng cực,
đói kém, nhiều người dân phải bỏ làng đi
nơi khác sinh sống. T́nh h́nh đó làm cho những người
nông dân chỉ có một con đường thoát duy nhất
là nổi dậy chống lại Nhà nước quân chủ
chuyên chế mà đỉnh cao là cuộc khởi nghĩa của
anh em nhà Tây Sơn, đă thu hút sự tham gia của đông
đảo các tầng lớp nhân dân ở Phú Yên.
Tuy đời sống
chính trị diễn ra khá phức tạp, nhưng đời
sống tinh thần của người dân Phú Yên không ngừng
phát triển và nâng cao. Bên cạnh việc duy tŕ nền
văn hóa truyền thống, người Việt tiếp
thu văn hóa người Chăm, người Trung Hoa, tạo
ra một nền văn hóa phong phú và nhiều màu sắc.
Điều đó một lần nữa cho thấy khả
năng thích nghi môi trường sống mới của con
người Phú Yên là rất cao, rất đa dạng.
1.
Đào Duy Anh: Đất nước Việt
2. Cristophoro Borri: Xứ
Đàng Trong năm 1621, Nxb Tp Hồ Chí Minh, 1998. (Hồng Nhuệ,
Nguyễn Khắc Xuyên, Nguyễn Nghị dịch)
3. Nguyễn Phan Quang, Vơ
Xuân Đàn: Lịch sử Việt
4. Nguyễn Đ́nh Đầu:
Nghiên cứu địa bạ Triều Nguyễn Phú Yên, Nxb
TP. Hồ Chí Minh, 1997.
5. Lê Quư Đôn toàn tập,
tập I: Phủ biên tạp lục, Nxb KHXH, Hà Nội, 1977.
6. Phan Khoan: Việt sử
xứ Đàng Trong. Nhà sách Khai Trí, 1967.
7. LiTana: Xứ Đàng
Trong, Lịch sử kinh tế xă hội thế kỷ XVII,
XVIII. Nxb Trẻ, TP Hồ Chí Minh,
8. Thành Thế Mỹ: Ngoại
thương Việt Nam Thế kỷ XVII, XVIII và đầu
thế kỷ XIX. Nxb sử học, Hà Nội, 1961.
9. Nguyễn Đức Nghinh: Mấy
nét phác thảo về chợ làng (qua những tài liệu thế
kỷ XVII, XVIII), Tạp chí NCLS, Hà Nội, số 5, 1980.
10. Nhiều tác giả:
Địa chí Phú Yên, Nxb CTQG, Hà Nội, 2003.
11. Lê Nguyễn: Xă hội
Đại việt qua bút kư người nước ngoài,
Nxb Văn Nghệ, TP Hồ Chí Minh, năm 2004.
12. Quốc sử quán Triều
Nguyễn: Khâm định Việt sử thông giám
cương mục, bản dịch, Nxb Giáo dục, Hà Nội,
1998.
13. Văn Tân: Khởi nghĩa
Tây Sơn, Nxb KHXH, Hà Nội, 2.004.
14. Tạp chí Xưa và Nay
số 106/ 2001.
15. Tạp chí Xưa và Nay
số 140/ 2003.
PHÚ YÊN THỜI
PHONG TRÀO
NÔNG DÂN TÂY SƠN VÀ TRIỀU TÂY SƠN
(1771 - 1802) (*)
Liên Hiệp các hội khoa học và
kỹ thuật Phú Yên
1 – TRONG PHONG TRÀO TÂY SƠN, PHÚ YÊN ĐĂ
TỪNG LÀ VÙNG CHIẾN ĐỊA CỦA QUÂN TÂY SƠN VÀ
QUÂN CHÚA NGUYỄN
1.1 – Nguyên nhân bùng nổ phong trào Tây
Sơn ở Phú Yên
Nửa đầu thế
kỷ XVIII chế độ quân chủ chuyên chế ở
Việt
Nguyên nhân cơ bản dẫn
đến sự khủng hoảng của Phú Yên - nói riêng,
xă hội Việt
T́nh trạng chiếm
đoạt ruộng đất của địa chủ ở
Phú Yên tuy diễn ra không nghiêm trọng bằng vùng Thuận
– Quảng, nhưng diện tích ruộng đất th́ ít mà
tỉ lệ ruộng công tương đối cao, nên bọn
quan lại, địa chủ t́m mọi cách chấp chiếm
xâm lấn ruộng công làng xă.
Bên cạnh việc chiếm
đoạt ruộng đất, hàng năm bọn quan lại
địa chủ ở Phú Yên c̣n triển khai thực hiện
hàng trăm thứ thuế của chúa Nguyễn để
thỏa măn nhu cầu xa xỉ của tầng lớp quư tộc
và bộ máy quan liêu cồng kềnh. Chẳng những thế,
bọn quan lại sai nha c̣n trưng thu gian lận, bớt
xén, nhân dân thống khổ về nỗi “một
cổ hai tṛng”. Khi nhà nước
cần một sản vật ǵ lại đặt thêm thuế
sản vật đó. Năm 1769, nhà nước cần mỡ
heo để lau súng đại bác, liền ra lệnh
đánh thuế mỡ heo. Những vùng xa như Phú Yên th́
thay bằng tiền: 5 tiền/chĩnh.
Mỗi lần
xây dựng cung điện Phú Xuân (Huế) th́ dân Phú Yên, Quy
Nhơn, Quảng Ngăi phải nộp gỗ, dân B́nh Khang, Diên
Khánh nộp song mây, lá gồi. Các sản vật trên hoặc
do nhà nước trưng mua, hoặc coi như một loại
thuế phải đóng cho nhà nước.
Ngoài ra, cũng như
đại đa số cư dân Đàng Trong, những
người dân Phú Yên c̣n phải đóng các thứ thuế
đầu nguồn, thuế thân, thuế chợ, thuế
thuyền… mức thuế ngày càng tăng cao. Nhân dân vùng miền
núi nộp thuế vừa bằng tiền, vừa bằng
hiện vật. Các sách người Ê đê, Ba Na… vùng miền
Tây Phú Yên c̣n nộp thuế bằng hiện vật: ngà voi,
sừng tê giác, mật ong, trầm hương, gỗ…
Để thực hiện
chính sách thuế khóa nói trên, họ Nguyễn đặt ra hệ
thống quan thu thuế cồng kềnh, gọi là “bản
đường quan”. Tại
phủ Phú Yên, có hàng chục quan thu thuế; ở cấp phủ,
huyện; mỗi loại thuế đặt riêng một
viên quan cai trưng. T́nh h́nh đó đă làm cho nhân dân miền
xuôi, miền ngược ở Phú Yên lâm vào cảnh điêu
đứng, cùng kiệt.
Đám quan lại, từ
quan to đến quan nhỏ, kể cả Chánh Tổng, Xă
Trưởng của các làng xă ở Phú Yên đều “nhà cửa chạm trổ, trướng vóc màng the,
đồ dùng toàn bằng đồng bằng sứ, bàn ghế
bằng gỗ đàn, gỗ trắc… quần áo là lượt,
nệm hoa chiếu mây, lấy sự phú quư để khoe
trương lẫn nhau”.([29]) Sự thối
nát của tầng lớp thống trị ở Phú Yên (nói
riêng) và ở Đảng Trong (nói chung) cùng với bộ máy
thống trị quan liêu ngày càng ph́nh ra. “Chỉ
trong một xă cũng có đến 16, 17 tướng thần
và hơn 20 xă trưởng”([30]).
Nạn mua quan bán tước ở Phú Yên ngày càng phổ biến
làm cho số quan lại ngày càng tăng. Trong khi đó sức
sản xuất của các làng xă bị ḱm hăm, nạn mất
mùa đói kém, đời sống nhân dân lầm than cơ cực.
Trước khi nổ ra
cuộc khởi nghĩa Tây Sơn, nhân dân Phú Yên đă cùng
các dân tộc dọc Trường Sơn và vùng Tây Nguyên
đă nhiều lần nổi dậy. Năm 1746, “cuộc nổi dậy của người Chăm ở
Thuận Thành và cuộc khởi nghĩa của các tộc
thiểu số ở Quảng Ngăi, buộc chúa Nguyễn phải
điều động thêm quân lính ở hai phủ Quy
Nhơn và Phú Yên đi đàn áp”([31]).
1.2. Nhân dân Phú Yên với phong trào Tây
Sơn
Mùa xuân năm 1771, cuộc
khởi nghĩa của phong trào Tây Sơn nổ ra tại ấp
Tây Sơn, một vùng miền núi thuộc phủ Quy Nhơn
(tỉnh B́nh Định ngày nay). Nghĩa quân đă nhanh chóng
mở rộng khắp các tỉnh B́nh Định, Phú Yên. Với
khẩu hiệu
“Lấy của nhà giàu chia cho dân nghèo”, ngọn cờ đó của nghĩa
quân đă nhanh chóng tập hợp được đông
đảo nông dân và các tầng lớp dân nghèo, chĩa mũi
nhọn vào bọn quan lại sâu mọt giàu có của chính
quyền chúa Nguyễn - Đàng Trong.
Một giáo sĩ
phương Tây - Diego Jumilla - có mặt ở Đàng Trong lúc
bấy giờ đă mô tả hoạt động buổi
đầu của nghĩa quân Tây Sơn trong một bức
thư đề ngày 15-2-1774, có đoạn: “Năm ngoái, khoảng đầu tháng 4, quân Đàng
Trong [ư
nói quân Tây Sơn] bắt đầu tuần
hành các nơi … Ban ngày họ xuống các chợ, kẻ
đeo gươm, người mang cung tên, lại có người
mang súng. Họ không làm thiệt hại đến người
và của; trái lại họ muốn tỏ ra b́nh đẳng
giữa mọi người Đàng Trong. Họ vào nhà giàu, nếu
biếu họ ít nhiều th́ họ không gây tổn hại,
nhưng nếu chống cự th́ họ cướp lấy
những đồ quư giá nhất đem chia cho người
nghèo… Họ tấn công và tước vũ khí viên quan do nhà
vua sai vào thu thuế; họ thu lấy tất cả giấy
tờ của viên quan này và đem đốt ở nơi
công cộng”([32]). Một giáo sĩ khác, E. Castuera, cũng ghi: “Họ tuần hành trong các làng, tuyên bố với dân
chúng rằng họ không phải là giặc cướp, mà là
những người làm theo ư của trời; họ muốn
thực hiện công lư trong xă hội và giải phóng nhân dân
thoát khỏi ách chuyên chế của vua quan. Họ tuyên truyền
sự b́nh đẳng về mọi mặt, lấy của
cải của quan lại và nhà giàu phân phát cho dân nghèo. Những
làng mạc bị thuế má hà khắc đè nặng đă
nhiệt liệt tuyên thệ hưởng ứng khởi
nghĩa”([33]). Cũng ngay từ đầu đồng
bào các dân tộc ở Phú Yên và Tây nguyên tham gia đông đảo
vào hàng ngũ nghĩa quân. “Trước
đó họ đă nhiều lần nổi dậy, và khi khởi
nghĩa Tây Sơn bùng nổ, họ trực tiếp sát cánh với nhân dân miền xuôi,
tiếp tục cuộc đấu tranh”([34]). Vẫn theo giáo sĩ Diego Jumilla “năm ngoái [1773] … cùng đi theo [Tây Sơn] cũng có bọn giặc núi đi từ miền núi
giữa hai hạt Quy Nhơn và Phú Yên”.
Giáo sĩ Le Roy, trong một bức thư đề tháng 12
– 1786 cũng viết: “Lính của họ [Tây Sơn] có bộ phận gồm những người thiểu
số khác ở Cao Miên, Xiêm…”.
Ngoài ra, lúc khởi nghĩa Tây Sơn phát triển [1773]
đông đảo đồng bào các dân tộc ít người
ở Phú Yên đă ủng hộ anh em nhà Tây Sơn, tiêu biểu
có nữ chúa Chàm tên là Thị Hỏa([35]),
vua Thủy Xá (Pơtau Ea), vua Hỏa Xá (Pơtau Apui)… Thị
Hỏa lập đồn trại ở Thạch Thành [vùng
Sơn Thành – Tây Ḥa ngày nay] làm quân tiếp ứng cho Tây
Sơn.
Cùng với đồng
bào các dân tộc ít người ở miền Tây Phú Yên,
đồng bào các làng ven biển Phú Yên cũng tích cực
hưởng ứng tham gia phong trào Tây Sơn, nhiều
người trong số đó trở thành những vị
tướng lĩnh tài ba dưới trướng Quang Trung
– Nguyễn Huệ, như: Vơ Văn Dũng, Nguyễn
Nhưng Huy, Bốn Linh (Tư Linh), Lưu Quốc Hưng,
Vơ Văn Cao, Nguyễn Quang Huy, Phan Văn Biên …
Vơ Văn Dũng là một
danh tướng dưới triều Tây Sơn. Ông sinh ra ở
B́nh Định, nhưng từ năm 20 tuổi chuyển
vào Phú Yên sinh sống và làm nghề buôn ngựa. Duyên may, ông gặp
được “lăo trượng họ
Lương ḍng dơi Lương Văn Chánh ở Tuy Ḥa dạy
cho môn trường kiếm và môn đoản đao, dạy
cách đánh trên đất và dạy đánh trên ngựa, lúc
dùng một món, lúc dùng cả đôi.”
Khi khởi nghĩa Tây Sơn nổ ra, là người có vơ
nghệ, sức khỏe, lại thường xuyên đi lại
buôn bán vùng B́nh Định – Phú Yên, nên Vơ Văn Dũng đă
sớm tiếp xúc với những thủ lĩnh của
phong trào và tham gia khởi nghĩa. Ông cũng là người
bạn tâm giao của Nguyễn Nhạc. Vơ Văn Dũng là
đại công thần lập quốc của vương
triều Tây Sơn.
Lưu Quốc Hưng, Vơ
Văn Cao, Nguyễn Quang Huy, Phan Văn Biên … đều sinh
ra và lớn lên ở huyện Đồng Xuân - Phú Yên. Huyện
Đồng Xuân xưa bao gồm cả Sông Cầu, Tuy An,
Đồng Xuân và một phần huyện Phú Ḥa và thành phố
Tuy Ḥa ngày nay.([36])
Trong số này nổi tiếng hơn cả là Vơ Văn Cao.
Vơ Văn
Cao, người Phú Yên, làm đến chức Quốc tử
giám trực giảng, được thăng Thái Tử
Trung doăn đời Quang Trung. Vơ Văn Cao tính t́nh
cương trực, không chịu nổi hành vi và thái độ
hống hách của quan Thái sư Bùi Đắc Tuyên, nên nhân
lúc về quê cư tang cha mẹ, ông ở luôn ở nhà cày ruộng.
Ông đă sáng tác một số bài thơ chê Tuyên là gian thần,
Tuyên rất giận. Khi Vơ Văn Cao chết, Tuyên bảo là
giả chết, cho người phá quan tài ra xem, Trần
Quang Diệu, Vơ Văn Dũng phải can thiệp mới
được miễn. ([37])
Như vậy
điểm qua các lực lượng tham gia phong trào Tây
Sơn, rơ ràng nhân dân từ miền xuôi đến miền
ngược ở Phú Yên đă tích cực tham gia phong trào khởi
nghĩa. Họ vùng lên chống lại bộ máy thống trị
với nạn thuế khóa khắc nghiệt, nạn chiếm
đoạt ruộng đất cùng nhiều tai họa khác
đang đè nặng lên đời sống của họ.
1.3. Trong phong
trào Tây Sơn Phú Yên đă từng là vùng chiến địa
của quân Tây Sơn và quân chúa Nguyễn
Từ khi nhà Tây Sơn khởi
nghiệp đến khi lụi tàn, Phú Yên chính là mảnh
đất “phên dậu phía Nam” của Tây Sơn.
Sau khi cuộc khởi nghĩa
nổ ra [1771] đến đầu năm 1773 nghĩa quân
Tây Sơn đă làm chủ một vùng rộng lớn từ
Phú Yên đến Quảng Ngăi (bao gồm cả một phần
Tây Nguyên). Cuối năm 1773, từ Phú Yên nghĩa quân
đánh chiếm Diên Khánh, B́nh Khang.
Mùa hè 1774,
lưu thủ Long hồ Tống Phước Hiệp huy
động quân lính ở Gia Định tiến đánh và
chiếm lại ba phủ B́nh Thuận, Diên Khánh, B́nh Khang,
sau đó chiếm lại cả Phú Yên. Và Phú Yên trở thành
chiến tuyến địa đầu của nghĩa quân
Tây Sơn, nơi đối đầu với tập
đoàn phong kiến chúa Nguyễn ở phía Nam, buộc các
thủ lĩnh Tây Sơn phải t́m mọi cách để lấy
lại vùng đất này; chỉ có như vậy mới có
điều kiện bảo tồn và phát triển cuộc
khởi nghĩa.
Tháng 7-1775, Nguyễn Nhạc
phải dùng kế hoăn binh với quân Trịnh ở mặt
bắc để tập trung lực lượng đánh
chiếm lại Phú Yên, tấn công quân Nguyễn ở phía
Nam.
Đối với mặt
trận phía Nam, Nguyễn Nhạc sai người mang thư
vào Phú Yên ngỏ ư xin hàng Tống Phước Hiệp và lập
hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương lên làm vua. Phúc Hiệp tin là
thật nên không chú ư pḥng bị nữa. Nắm lấy
sơ hở này, Nguyễn Nhạc cử Nguyễn Huệ
đem đại binh đánh úp Tống Phước Hiệp
ở Phú Yên và giành thắng lợi. Đây là chiến công lớn
đầu tiên của Nguyễn Huệ, bấy giờ mới
23 tuổi.
Trong trận tiến công
này, lực lượng nghĩa quân tại Phú Yên có lực
lượng kỵ binh do Nguyễn Quang Sáng, Lương
Văn Trực cùng vua Thủy Xá Ma Khương chỉ huy –
tụ nghĩa ở núi La Hiên – phối hợp với thủy
quân của Lưu Quốc Hưng, Trần Văn Nhâm hợp
thành lực lượng Tây Sơn hữu đạo, cùng
2.000 quan quân của Nguyễn Huệ từ Quy Nhơn kéo
vào, đánh tiêu diệt hơn 10.000 quân của chúa Nguyễn
ở Vịnh Xuân Đài([38]).
Tống Phước Hiệp, theo đường bộ
tháo chạy lên núi, vượt đèo vào nam.
Về sau Gia Long cho xây dựng
“Miếu Công thần” để thờ quân Nguyễn bị
Tây Sơn giết chết trong trận thủy chiến Xuân
Đài. Miếu nằm ở đảo Ḥn Nầng, một
ḥn đảo nằm trong đầm Cù Mông, đoạn thuộc
xă Xuân Thịnh, huyện Sông Cầu ngày nay.
Tương truyền trong
dân gian, chúa Nguyễn [chỉ Tống Phước Hiệp]
bị quân Nguyễn Huệ đánh tan tác ở Vịnh Xuân
Đài, cùng một nhóm bộ hạ hơn mười
người thoát chạy lên vùng núi Xuân Đài, sau đó
băng sông Ngân Sơn chạy về hướng Tây. Trên
đường trốn chạy, bị quân Tây Sơn truy đuổi
gắt gao, Tống Phước Hiệp cho bộ tướng
chạy trước để đánh lạc hướng,
c̣n ông ta thay đổi trang phục vào trốn ở nhà Bà
Trang thuộc thôn Định An Đông, tổng Hạ, huyện
Đồng Xuân – ở giáp ranh giới xă An Định và thị
trấn Chí Thạnh, huyện Tuy An ngày nay. Khi nghĩa quân
truy lùng đến Bà Trang cho Tống Phước Hiệp
vào trong buồng đắp chiếu nằm giả bệnh.
Bà nói với toán nghĩa quân truy đuổi là có thấy một
nhóm người vừa chạy qua, c̣n người đàn
ông đang nằm trong buồng là chồng của bà. Tống
Phước Hiệp thoát chết, về sau ông ta có t́m lại
nhà Bà Trang để cảm tạ ơn cứu mạng,
nhưng Bà Trang đă chết, ông tâu với triều đ́nh
sắc phong, nhân dân địa phương xây dựng đền
miếu thờ, gọi là “Miếu Bà Trang”.([39])
Ở phía Nam Phú Yên đội
quân của vua Hỏa xá Y Thuông ở Thạch Thành cùng quân của
các tướng Phạm Văn Tham, Lê Văn Thanh và thủy
quân của Phạm Ngạn chặn đánh tiêu diệt 5.000
quân của chúa Nguyễn từ phía Nam kéo ra đèo Cổ Mă.
Chiếm được
Phú Yên [1775], Nguyễn Nhạc cử Lư Tài trấn thủ
Phú Yên, sai em là Nguyễn Lữ đem thủy binh vào đánh
Gia Định, chiếm được thành Gia Định
và các dinh Trấn Biên, Phiên Trấn, Long Hồ; chúa Nguyễn
Phúc Thuần phải chạy về Bà Rịa.
Tháng 3 – 1776, Nguyễn Nhạc
tự xưng Tây Sơn Vương, xây lại thành Đồ
Bàn, phong Nguyễn Huệ làm Phụ Chính, Nguyễn Lữ
làm Thiếu Phó; mở đầu sự h́nh thành
vương triều Tây Sơn.
Trong suốt những
năm khởi nghĩa và tồn tại của Tây Sơn,
cùng với Quy Nhơn, Phú Yên là hậu cứ quan trọng của
nhà Tây Sơn. Tại đây, nhà Tây Sơn đă tập trung
củng cố lực lượng, xây dựng căn cứ.
Từ năm 1773, một nhiệm vụ lớn lao của
nghĩa quân Tây Sơn là quản lư cả một vùng biển
dài, rộng; đồng thời phải tiêu diệt đội
quân của Nguyễn Ánh đang được tư bản
phương Tây vực dậy. Đội quân của Nguyễn
Ánh được sự giúp đỡ của tư bản
Pháp, Bồ Đào Nha và phong kiến Xiêm. Quân đội Tây
Sơn với tất cả tiềm năng vốn có của
dân tộc, đang được tổ chức, tập hợp
lại dưới sự lănh đạo thiên tài của Nguyễn
Huệ.
Để
đối phó và đập tan âm mưu của Nguyễn Ánh
quay lại đánh chiếm vùng đất phía
1. Tăng cường hệ
thống bố pḥng các cửa biển và hải cảng.
2. Đóng thêm chiến thuyền lớn,
chế tạo vũ khí và các biện pháp khác nhằm tằng
cường sức chiến đấu.
3. Sử dụng “cướp biển”.
4. Khai thác kỹ thuật quân sự
phương Tây.
Ngay từ
khi xác lập quyền làm chủ ở Phú Yên [1773 - 1776] vấn
đề bố pḥng, tuần tra được nghĩa
quân chú ư. Cha cố Diego Jumilla đă cho biết về khả
năng kiểm soát của nghĩa quân: “Những người
nổi dậy làm chủ cả tỉnh Quy Nhơn. Say
sưa bởi những chiến công ấy, họ bổ nhiệm
quan lại cho hai tỉnh đó [Quy Nhơn, Phú Yên] và đắp
lũy cho các hải cảng”. Ông nhận xét: “Bọn họ [Tây Sơn] ngăn cản
không để nhà vua [chúa Nguyễn] liên lạc với
các tỉnh khác ở giữa Phú Yên và Raygon [vùng đồng
bằng sông Cửu Long]. Từ các tỉnh
ấy ra tới triều đ́nh [Phú Xuân] người ta không
thể nào lưu thông đường bộ cũng như
đường biển” ([40]).
Từ 1776
– 1785, khi quân Nguyễn co lại ở Gia Định, quân
Tây Sơn đứng vững trên địa bàn của ḿnh
từ Phú Yên ra đến Quảng Nam, tạm ḥa hoăn với
quân Trịnh ở Thuận Hóa, ra sức xây dựng lực
lượng cho năm lần tiến công giải phóng Gia
Định sau này.
Từ năm 1789 những
chuyển biến sâu sắc trong quân đội Tây Sơn,
nhất là là việc h́nh thành căn cứ quân thủy lớn
ở vùng biển Cù Mông – Thị Nại. Bằng hoạt
động tuần tra rất có hiệu quả của các
đội “du thuyền” và sự xuất hiện những tàu thuyền lớn
trang bị nhiều pháo, chuyên hoạt động trên biển
đă làm rơ nét một lực lượng hải quân độc
lập, hùng hậu. Nhờ vậy, lực lượng quân
đội Tây Sơn đóng trên địa bàn Phú Yên ngăn
chặn được kế hoạch phản công của
Nguyễn Ánh bằng những trận “giặc
mùa”.
Nguyễn Ánh nói: “Nay ta dùng mẹo khiến cho giặc hồ nghi, tiến
đánh luôn làm cho giặc mệt mỏi, hàng năm nhân mùa
có gió, thủy binh do đường biển mà tiến, bộ
binh theo đường B́nh Thuận, B́nh Khang tiến ra;
được một châu th́ đắp thành một châu,
được một huyện th́ đóng đồn một
huyện để làm phên dậu cho Gia Định; dần
dần sức giặc suy kém, thiên hạ có thể về
tay ta vậy”. ([41])
Từ đó, hàng năm cứ đến tháng 4, tháng 5 là mùa
có gió nam thổi mạnh, Nguyễn Ánh kéo quân thủy bộ
ra đánh Tây Sơn, đến gió mùa đông bắc lại
rút về. Người đương thời gọi các
đợt phản công này của Nguyễn Ánh là những trận
“giặc mùa”.
Chính trong thời kỳ này, Phú Yên lại trở thành trung
tâm, là tuyến đầu của cuộc chiến tranh chống
“giặc mùa”.
Từ năm 1792 đến 1799 Nguyễn Ánh năm nào cũng
kéo quân từ phía Nam ra tấn công Phú Yên, trực tiếp uy
hiếp Quy Nhơn.
Tháng 6-1792, Nguyễn Ánh
cùng các tướng Nguyễn Văn Trương, Nguyễn
Văn Thành và Dayot, Vannier đem 128 chiến thuyền, bất
ngờ tiến đánh Phú Yên và Quy Nhơn, rồi nhanh chóng
rút về.
Tháng 4-1793, Nguyễn Ánh
cùng các tướng Nguyễn Văn Trương, Vơ Tánh lại
mở tiếp cuộc tấn công ra phía bắc bằng
đường biển, trong đó có Phú Yên, rồi tiến
ra cửa biển Thị Nại. Trên đường bộ,
các tướng Tôn Thất Hội, Nguyễn Hoàng Đức,
Nguyễn Văn Thành đánh ra B́nh Thuận, đến Phú
Yên hai cánh quân thủy bộ hợp nhau cùng vây thành Quy
Nhơn. Nguyễn Nhạc phải sai người ra Phú Xuân
cầu cứu. Lúc bấy giờ Quang Toản đă nối
ngôi Quang Trung, sai Phạm Công Hưng, Lê Trung, Ngô Văn Sở
đem 17.000 quân bộ và 80 thớt voi cùng với Đặng
Văn Chân đem 30 chiến thuyền vào giải vây cho Quy
Nhơn. Nguyễn Ánh thấy viện binh Tây Sơn hùng hậu,
lại gặp mưa to, liệu thế không chống cự
nổi, bèn hạ lệnh rút quân về Gia Định, chỉ
để các tướng lại giữ các thành ở Phú
Yên.
Tại Phú Yên các bộ tướng
Tây Sơn đă cùng nghĩa binh thuộc các bộ tộc Thủy
Xá, Hỏa Xá nhanh chóng tấn công quân Nguyễn, giành quyền
làm chủ từ Cù Mông đến Đèo Cả.
Về phía Tây Sơn, sau
khi giải vây Quy Nhơn, Phạm Công Hưng kéo quân vào chiếm
thành và tịch biên kho tàng. Nguyễn Nhạc uất giận,
thổ huyết chết. Sự kiện này càng đào sâu
thêm mâu thuẫn nội bộ Tây Sơn. Trong các quan đại
thần Tây Sơn cũng diễn ra những cuộc thanh trừng,
tranh giành quyền lực. Năm 1795, sau khi biết âm
mưu của Bùi Đắc Tuyên đang truất phế
đại thần, Vũ Văn Dũng bất ngờ
đem binh vây giết Thái sư Bùi Đắc Tuyên – cậu
ruột Quang Toản – và Ngô Văn Sở; sau đó sai Nguyễn
Văn Huấn sát hại Trần Quang Diệu (nhưng không
thành). Từ đó, Tây Sơn suy yếu nhanh chóng, tướng
sĩ nhiều người nản ḷng bỏ theo Nguyễn
Ánh.
Tháng 3 – 1799 (năm Kỷ
Mùi), sau khi nắm được t́nh h́nh nội bộ Tây
Sơn lục đục, Nguyễn Ánh quyết định kéo đại quân ra đánh Phú Yên,
rồi vây chặt thành Quy Nhơn. Cuộc chiến ở
đây diễn ra quyết liệt, thành Quy Nhơn bị thất
thủ. Nguyễn Quang Huy, vội đem quân từ Phú Yên ra
tiếp cứu.
Quê
hương của Nguyễn Quang Huy nằm ở chân núi
phía
Nguyễn Quang Huy sau khi bại
binh ở B́nh Thuận, không dám về Quy Nhơn, mà về
quê hương Phú Yên, chiếm cứ một nơi hiểm
yếu trong dăy Cù Mông đợi dịp lập công chuộc
tội. Khi Lê Văn Hưng vào đánh địch ở Phú
Yên, vốn đă quen biết nhau từ trước, nên Nguyễn
Quang Huy liền đem quân ra hưởng ứng, dễ dàng
đánh chiếm lại Phú Yên. Sau chiến thắng ở
Phú Yên, Lê Văn Hưng để Nguyễn Quang Huy ở lại
trấn thủ Phú Yên, rồi kéo binh về Phú Xuân.
Khi tiến
đánh giải vây cho thành Quy Nhơn, “Nguyễn Quang Huy đánh rất
hăng, một ngày đánh bại 25 viên tướng của
Nguyễn Ánh. Ánh lấy làm lạ, lên thành đứng xem”. Quang Huy trông thấy dùng
cung thiết thai – một loại cung lớn có ṇng sắt –
bắn trúng cánh tay trái. “Nguyễn
Ánh té nhào bất tỉnh. Tướng sĩ đưa vào
dinh cứu chữa” [42].
Hay tin Nguyễn Quang Huy tiếp
ứng thành Quy Nhơn, đất Phú Yên đang bỏ trống,
Nguyễn Văn Thành (danh tướng của Nguyễn Ánh) ở
Diên Khánh liền đem quân ra Phú Yên chiếm đóng, rồi
kéo thẳng ra Quy Nhơn. Quân của Quang Huy bị đánh
hai mặt, hết sức chóng đỡ, nhưng quân Nguyễn
quá đông. Sức đuối dần, quân của Quang Huy bị
tan ră, ông một người một ngựa chạy vào núi
vùng núi Vân Canh – Cù Mông. Nguyễn Quang Huy đă lợi dụng
thế núi hiểm trở, chiêu mộ hào kiệt chờ dịp
phục thù.
Chiếm được
thành Quy Nhơn, Nguyễn Ánh đổi tên là thành B́nh Định,
giao cho Vơ Tánh và Ngô Tùng Châu ở lại trấn giữ, rồi
rút về Gia Định. Trên căn bản các thành lũy ở
Phú Yên – B́nh Định đều do quân Nguyễn trấn
giữ, nhưng quân Nguyễn không có khả năng kiểm
soát toàn bộ vùng đất của hai tỉnh này. Quân Tây
Sơn vẫn c̣n trấn giữa nhiều vùng trọng yếu
ở miền núi Phú Yên, B́nh Định. Tại cửa biển
Thị Nại (Quy Nhơn) và Xuân Đài – Cù Mông (Phú Yên), quân
Tây Sơn vẫn giành quyền làm chủ.
Năm 1800 Nguyễn Quang
Huy lănh đạo một đội dân binh đồng bào
dân tộc thiểu số hai tỉnh B́nh Định và Phú
Yên tấn công tiêu diệt một đội quân của nhà
Nguyễn ở phía Bắc dăy núi Cù Mông - do Trương Tấn
Bửu chỉ huy – đẩy lùi cuộc tấn công của
quân Nguyễn từ phía Nam đánh ra; buộc Trương
Tân Bửu, Tống Phước Hiệp, Nguyễn Văn
Thành phải rút vào Đồng Xuân – Phú Yên đóng giữ, chờ
cơ hội phản công.
Năm 1801, từ phía Tây
Nguyễn Quang Huy phối hợp với Vũ Văn Dũng
và Trần Quang Diệu (từ phía Đông), tấn công thành
Quy Nhơn, đánh bật quân Nguyễn ra khỏi thành này.
Ngày 27 tháng 5 năm Tân Dậu (1801), Quy Nhơn thất thủ,
Vơ Tánh và Ngô Tùng Châu – tướng nhà Nguyễn trấn thủ
Quy Nhơn – tự vẫn.
Tháng 6-1801, Nguyễn Ánh
chiếm Phú Xuân. Năm 1802 (ngày 2/5 âm lịch) Nguyễn Ánh
lên ngôi Hoàng đế, niên hiệu là Gia Long.
Trong phong
trào Tây Sơn, Phú Yên là nơi diễn ra các trận đánh
giữa quân Tây Sơn và quân chúa Nguyễn, nghĩa quân Tây
Sơn ở Phú Yên liên tục chiến đấu, xây dựng
lực lượng, lật đổ chính quyền thống
trị trong nước, đánh tan các cuộc xâm lược
của quân Nguyễn câu kết với nước ngoài; tiêu
biểu cho tinh thần quật khởi chống áp bức
cường quyền và tinh thần đoàn kết dân tộc
chống ngoại xâm.
2 – PHÚ YÊN DƯỚI VƯƠNG TRIỀU
TÂY SƠN.
2.1. Vương triều Tây Sơn và cuộc
cải cách của Quang Trung
Suốt trong những thế
kỷ XVI, XVII, XVIII, chế độ quân chủ tập quyền
Việt
Cuối
thế kỷ XVIII, xă hội Việt
Ngày 25.11 năm Mậu
Thân (1788), Nguyễn Huệ lên ngôi xưng đế, đặt
niên hiệu là Quang Trung. Trong “Chiếu lên ngôi” Quang Trung
đă từng tuyên bố: “Trẫm nay cùng dân đổi mới”,
chứng tỏ Quang Trung có ư thức xây dựng đất
nước theo một đường lối khác với
các triều đại cũ. Và trên thực tế, sau khi
lănh đạo cả dân tộc đánh phá ngót 30 vạn quân
xâm lược nhà Thanh, Quang Trung khẩn trương xúc tiến
công cuộc tái thiết theo hướng tạo điều
kiện thuận lợi cho nông dân trở về với ruộng
đất, đặc biệt là xoá bỏ chính sách “bế
quan tỏa cảng” cản trở bước tiến của
xă hội từ nhiều thế kỷ trước ([45]).
2.2. Những chính sách cải cách về
chính trị, quân sự của Quang Trung tác động đến
Phú Yên.
Sau khi tiêu diệt 30 vạn
quân Thanh, Nguyễn Huệ đă tiến hành xây dựng bộ
máy chính quyền mới, có đủ năng lực bảo
vệ quốc gia và bảo đảm thực hiện những
chính sách cải cách tích cực.
Từ khi c̣n là Bắc
B́nh Vương, Nguyễn Huệ đă chú ư nhiều mặt
về chính trị, từng bước xây dựng chính sách ở
trung ương và địa phương. Tại kinh đô
Phú Xuân, ngoài những chức vơ tướng và tổ chức
quân đội, c̣n có các bộ Binh, bộ H́nh, bộ Hộ… với các chức Thượng
Thư, Thị Lang…
Năm 1787, Nguyễn Huệ
đă tổ chức những cơ quan chính quyền mới
thay thế cho bộ máy quan liêu thối nát của nhà Lê.
Năm 1788, Nguyễn Huệ
tiếp tục chỉnh đốn lại bộ máy cai trị.
Nhiều sĩ phu tiến bộ như Ngô Thời Nhiệm,
Phan Huy Ích… cũng được Nguyễn Huệ cho tham
gia những chức vụ trọng yếu trong chính quyền
mới.
Sau khi xưng đế (25.11.1788)
Quang Trung củng cố lại chính quyền trung
ương theo quy cách một triều đ́nh đế
vương. Dưới hoàng đế, có Tam Công, Tam Thiếu,
Đại Chủng Tể, Đại Tư Đồ,
Đại Tư Khấu, Đại Tư Mă, Đại
Tư Không, Đại Tư Lệ, Thái Úy, Ngự Úy, Đại
Tổng Quản, Đại Đổng Lư, Đại
Đô Hộ, Đại Đô Đốc… Trong triều
đ́nh có các cơ quan chuyên trách như sáu bộ, do chức
Thượng Thư đứng đầu.
Việc phân chia khu vực
hành chính và tổ chức chính quyền địa
phương cũng được Quang Trung chỉnh đốn
lại thống nhất và chặt chẽ.
Đứng đầu mỗi
trấn có chức Trấn Thủ là một vơ quan và chức
Hiệp Trấn là một văn quan. Mỗi huyện có chức
Văn Phân Tư và Vơ Phân Suất đứng đầu,
dưới có chức Tả Quản Lư và Hữu Quản
Lư, giúp việc. Các tổng có Tổng Trưởng, xă có Xă
Trưởng phụ trách việc hành chính.
Đứng
đầu Trấn Phú Yên lúc này là Trấn Thủ (vơ quan)
đô đốc Nguyễn Văn Lộc (1774 - 1775), sau
đó là Nguyễn Quang Huy (đă giới thiệu ở phần
trên); Hiệp Trấn (quan văn) là Phạm Văn Tung ([46]).
Về cơ bản tổ
chức chính quyền ở trấn Phú Yên dưới thời
Tây Sơn vẫn là một chính quyền quân chủ quan liêu,
nhưng thành phần quan lại có những điểm mới.
Đó là một bộ phận quan chức vốn là những
tướng lĩnh nông dân bên cạnh một số quan lại
sĩ phu cũ được giữ lại và những
quan lại mới được tiến cử hoặc xuất
thân khoa cử do triều đ́nh tổ chức. Đối
với quan lại cao cấp, như các chức Trấn Thủ,
Hiệp Trấn … triều đ́nh thực hiện chế
độ bổng lộc, cấp cho họ một số
xă và một số dân đinh để thu thuế; nhà
nước không ban cấp ruộng đất cho quan lại
làm lộc điền.
Tổ chức chính quyền
làng xă ở Phú Yên trong buổi đầu xây dựng vẫn
c̣n ảnh hưởng mô h́nh của chúa Nguyễn, nên có
nơi c̣n cồng kềnh, chưa thống nhất,
nhưng đă kịp thời điều chỉnh phù hợp
với địa bàn và điều kiện dân cư, đảm
bảo an ninh trật tự nhằm phát triển kinh tế
- xă hội; tránh t́nh trạng “Quan càng nhiều th́ dân càng bị
nhiễu. Quyền nghi, công việc bất nhất” ([47]).
Để đáp ứng
nhu cầu xây dựng chính quyền mới, triều Tây
Sơn một mặt thực hiện chính sách “cầu hiền”, thu nạp nhân tài, trọng
dụng những sĩ phu thành tâm theo ḿnh; mặt khác, tổ
chức trường học, khoa thi; ba năm mở một
khoa thi. Khoa thi văn, gọi là “khoa Minh Kinh”. Năm
1789 (năm Quang Trung thứ nh́), khoa thi hương đầu
tiên được tổ chức ở Nghệ An, do Nguyễn
Thiếp làm chánh chủ khảo. Trong cuộc thi này ở miền
Trung có nhiều người ra ứng thí. Trúng tuyển vào hạng
ưu trong kỳ thi này có:
1. Phan Văn Biên, ở
Phú Yên, giỏi về kinh dịch, thông cả bách gia chư
tử, lại c̣n thạo âm nhạc, rành toán pháp. Đậu
xong, ông được triều
đ́nh bổ ngay làm quan Huấn đạo.
2.
Đinh Sĩ
An, ở B́nh Khê – B́nh Định, là một thành viên trong “Tây
Sơn tứ tài tử” ([48]).
3.
Phạm Văn
Tung, ở Phù Mỹ – B́nh Định, được phong
làm quan Hiệp Trấn ở Phú Yên.
4.
Trần Trọng
Vỹ (ở Hoài Ân), được phong làm Thị lang Bộ
Lễ.
5.
Đặng Sĩ
Nguyên (ở Quảng Nghĩa), được bổ nhiệm
làm quan Biên Tu.
6.
Đặng Mộng
Kỳ (Quảng
7.
Lê Xuân Tá (người
Quảng
Như vậy trong số
bảy người đậu hạng ưu ở kỳ
thi đầu tiên của triều Quang Trung ở Phú Yên có một
người (Phan Văn Biên), và trong số này đă có hai
người được bổ nhiệm về Phú Yên (Phạm
Văn Tung, Lê Xuân Tá).
Sau kỳ thi đầu
tiên, Quang Trung ban bố Chiếu
lập học tổ chức lại việc học hành
và thi cử. Khoa cử dần dần trở thành
phương thức đào tạo quan trọng của
vương triều Tây Sơn…
Trong quá tŕnh lănh đạo
cuộc khởi nghĩa và sau khi xưng đế, Quang
Trung rất chú ư thu nạp nhân tài, chiêu hiền đăi sĩ,
tập hợp được nhiều sĩ phu có năng lực,
thành tâm theo đuổi sự nghiệp của phong trào,
như Trần Văn Kỷ, Ngô Thời Nhậm, Phan Huy Ích,
Vũ Huy Tấn, Nguyễn Thế Lịch, Trần Bá Lăm,
Nguyễn Bá Lan, Nguyễn Nha, Đoàn Nguyễn Tuấn, Nguyễn
Công, Nguyễn Thiện, Phan Tố Định, Bùi
Dương Lịch, Vơ Văn Cao, Vơ Văn Dũng, Nguyễn
Nhưng Huy, Tư Linh, Lưu Quốc Hưng, Nguyễn Quang
Huy…([49]).
Trong số các sĩ phu
nêu trên, nhiều người vốn sinh ra hoặc lớn
lên ngay trên mảnh đất Phú Yên, như: Vơ Văn Cao, Vơ
Văn Dũng, Nguyễn Nhưng Huy, Tư Linh, Lưu Quốc
Hưng, Nguyễn Quang Huy, Thị Hỏa, vua Thủy Xá, vua
Hỏa Xá …
Đối với các sĩ
phu có danh vọng, Quang Trung giữ một thái độ “cầu
hiền” rất mềm mỏng và nhẫn nại. Tiêu biểu
nhất là việc mời Nguyễn Thiếp – một danh sĩ
nổi tiếng đương thời. Thái độ “cầu
hiền” chân thành của Quang Trung đă tranh thủ
được sự đóng góp của nhiều lứa tuổi
khác nhau, nhiều nguồn gốc xă hội khác nhau, đặc
biệt là những sĩ phu quan lại thời Lê, Trịnh.
Tổ chức
quân đội thời Quang Trung gồm: thủy binh, bộ
binh, tượng binh, kỵ binh và pháo binh. Quân đội có
nhiều chiến thuyền lớn, chở được
voi chiến, trang bị 50-60 đại bác, có đến 700
quân sĩ. Về vũ khí, ngoài cung tên, giáo mác… quân đội
c̣n được trang bị súng trường, đại
bác và hoả hổ (một loại ống phun lửa lợi
hại).
Về mặt quân sự,
tại Phú Yên, nhà Tây Sơn đă xây dựng được
một lực lượng quân đội mạnh, nhằm
trấn áp các thế lực đối kháng trong nước,
nhất là Nguyễn Ánh lúc bấy giờ đă chiếm
được Gia Định và đang từ phía Nam tấn công ra.
Trên địa bàn Phú Yên,
ngoài lực lượng thủy binh hùng mạnh c̣n có những
đội tượng binh của Thị Hỏa, của
Thủy Xá, Hỏa Xá, kỵ binh của Nguyễn Quang Sáng …
mỗi đội có hàng trăm người, hàng chục thớt
voi, hàng trăm con ngựa chiến.
Hoạt
động có ư nghĩa trong việc phát triển lực
lượng quân đội lúc này là sau các lần tiến
đánh quân Nguyễn ở phía Nam, Quang Trung cho thu hồi những
chiến lợi phẩm như thuyền chiến, vũ khí
đưa về đây nghiên cứu, cải tiến và chế
tạo mới. Đây cũng là thời kỳ nghĩa quân
mở những xưởng đúc rèn vũ khí rất lớn
mà ngày nay c̣n có thể t́m thấy nhiều di chỉ ở
hai tỉnh B́nh Định và Phú Yên, như khu vực thành
Chà Bàn, thành Hoàng Đế (B́nh Định), khu vực Ngân
Điền, Lỗ Chảo, Sơn Xuân (miền Tây Phú Yên).
Từ vùng núi Phú Yên, nghĩa
quân khai thác gỗ (để đóng thuyền chiến), luyện
thép, chế tạo vũ khí … chở theo đường
Sông Ba xuống tập kết tại cửa biển Xuân
Đài (Phú Yên) và Thị Nại (Quy Nhơn). Tại đây
những xưởng đóng thuyền chiến đấu
của Tây Sơn đă ra đời từ những năm
1776 – 1785.
Những
năm 1791, 1792 công việc này được xúc tiến mạnh
mẽ hơn, trên phạm vi từ Quảng B́nh vào Phú Yên,
để chuẩn bị cho kế hoạch tiến công
toàn diện, triệt để của Nguyễn Huệ vào
Gia Định. John Barrow là một người Anh, sang
nước ta trong những ngày Tây Sơn đóng tàu sôi nổi
nhất (1792 - 1793) đă nhận
xét: “Có một nghề
đặc biệt trong các nghề mà xứ Đàng Trong hiện
nay có thể tự hào, đó là nghề đóng thuyền biển
… Thuyền biển của họ đi không nhanh, nhưng rất
an toàn, bên trong được chia thành nhiều khoang. Loại
này rất chắc, có thể va vào đá ngầm mà không ch́m,
v́ nước chỉ vào được một khoang mà thôi.
Hiện ở Anh đă bắt chước cách đó để
đóng tàu”
([50]).
Khả năng quân Tây
Sơn đóng được những chiến hạm kiểu
châu Âu là có thật. Nghĩa quân Tây Sơn ở Phú Yên đă
góp phần to lớn vào việc chế tạo súng ống,
luyện thép, khai thác gỗ, đóng chiến thuyền. Hoàng
Lê nhất thống chí ([51])
có nói đến việc Quang Trung “đóng tàu biển” thật lớn, có thể chở “voi” để dọa đánh nhà Thanh.
Chaigneau, Barizy là những sĩ quan Pháp từng trực tiếp
giáp mặt với với quân Tây Sơn đă phải thừa
nhận sự tồn tại ngoài trí tưởng tượng
của họ những chiến hạm Tây Sơn trang bị
tới 50 – 60 khẩu đại bác hạng nặng. Chính sử
nhà Nguyễn ([52])
gọi đó là loại thuyền “Đại hiệu”. Sách Hoàng Lê nhất thống chí
[Sđd, tr. 403] mô tả thuyền “Đại hiệu” như một pháo đài di động,
trên “lập cḥi gác, đặt súng lớn”.
Các xưởng rèn
đúc, chế tạo vũ khí
của nghĩa quân Tây Sơn ở vùng miền Tây Phú
Yên đă chế tạo, bổ sung một nguồn vũ
khí lớn cho Tây Sơn, như: gươm, giáo, hỏa hổ,
hỏa cầu …
Hỏa hổ là một
loại vũ khí h́nh ống. Sử sách Nguyễn thường
gọi hỏa hổ là hỏa phun đồng. Theo Binh
thư yếu lược ([53])
cho biết cách chế súng như sau: dùng một cái ống
(bằng sắt hoặc tre, gỗ) dài khoảng 25cm, nạp
thuốc thành nhiều nấc, nấc đầu tiên là liều
thuốc bắn, giă nén chặt, dày khoảng 4 cm, sau đó
tiếp nấc thứ hai là liều thuốc phun, giă nén chặt
dày khoảng 12 cm. Sau đó, nạp đạn ghém gồm
các vật liệu sát thương, dày khoảng 4 cm. Phần
ống c̣n lại nạp đầy thuốc phun. Chi phí cho
một ống hết 9 – 10 lạng diêm tiêu, 1 – 2 lạng
lưu hoàng, 1 – 2 lạng than son. Khi xong, tra ng̣i vào đầu
ống, đồng thời lắp thêm một cán tre dài khoảng
20 cm (hoặc dài hơn, tùy cách dùng). Tùy loại ống (tre
hay sắt) mà dùng dây mây, hồ gắn quấn chặt xung
quanh. Ra trận gặp địch th́ châm ng̣i, cầm cán tre
chĩa hoặc lao về phía địch, thuốc phun và
đạn sẽ phóng ra đốt cháy, sát thương
đối phương. Dùng xong lại có thể lấy ống
đó nạp liều thuốc khác.
Hỏa cầu (lưu
hoàng) là loại quả nổ dùng để ném hoặc bắn,
có tác dụng như lựu đạn hoặc phóng lựu.
Tùy chất nạp mà quả nổ có thể tạo ra khói
độc, nhựa cháy, mảnh vụn sát thương …
Nhờ có thêm hai lại hỏa
khí nói trên và pháo trên chiến thuyền nên hỏa lực của
quân đội Tây Sơn khá mạnh, tạo ra bước
phát triển vượt bậc cho nghĩa quân cả về
số lượng lẫn chất lượng. Trong bức
thư đề ngày 11 – 4 – 1801, Barridy - một người
Pháp, cố vấn của Nguyễn Ánh bấy giờ đang
ở Gia Định, gởi cho Letondal, viết về trận
hải chiến trên vùng biển B́nh Định – Phú Yên xảy
ra trước đó hai tháng đă thống kê khá chi tiết
về lực lượng quân Tây Sơn do đô đốc
Vơ Văn Dũng chỉ huy:
“Quân
địch do đô đốc thiếu phó chỉ huy gồm:
-
9 tàu (vaisseaux) loại 66 đại
bác (canons) cỡ 24 livres (cân Anh), mỗi tàu 700 thủy binh.
-
5 tàu loại 50 đại bác, cỡ
24 livres, mỗi tàu 600 thủy binh.
-
40 tàu loại 50 đại bác, cỡ
12 livres, mỗi tàu 200 thủy binh.
-
93 thuyền
chiến (galères), loại 1 đại bác, cỡ 36 livres, mỗi
thuyền 150 thủy binh.
-
300 xuồng gắn pháo (chaloupes
canonniéres), loại 50 thủy binh.
-
100 tàu buồm kiểu Đàng Trong,
loại 70 thủy binh”.
Trong một đoạn
khác Barridy c̣n cho biết quân Tây Sơn c̣n 4.800 thuyền vận
tải nữa đang đậu ở các cảng và ven bờ.
([54])
Những chuyển biến
sâu sắc trong quân đội Tây Sơn, nhất là việc
h́nh thành căn cứ quân thủy lớn ở vùng biển
Cù Mông – Thị Nại, từ năm 1789. Bằng hoạt
động tuần tra rất có hiệu quả của các
đội “du thuyền” và sự xuất hiện những
tàu thuyền lớn trang bị nhiều pháo chuyên hoạt
động trên biển đă làm rơ nét một lực lượng
hải quân độc lập, hùng hậu. Nhờ vậy, lực
lượng quân đội Tây Sơn đóng trên địa
bàn Phú Yên ngăn chặn được kế hoạch phản
công của Nguyễn Ánh.
Năm 1790, Hiệp Trấn
Phú Yên là Phạm Văn Tung đă cho triển khai chủ
trương của Quang Trung là cho lập sổ hộ khẩu,
quy định chế độ trưng tập quân lính; cứ
3 xuất đinh lấy một suất lính; phát “tín bài”
để tránh t́nh trạng ẩn lậu và tiện việc
kiểm tra, kiểm soát. Đây là những biện pháp tiến
bộ về các mặt quân sự, kinh tế và an ninh.
2.3.
Những cải cách về kinh tế, tài chính.
Phục hồi kinh tế
nông nghiệp là nhiệm vụ quan trọng trong cuộc cải
cách của Quang Trung. Nhiệm vụ đó được
quan quân nhà Tây Sơn ở Phú Yên triển khai khá triệt
để. Chính quyền địa phương đă cho
dân phiêu tán trở về quê quán nhận ruộng cày; những
người ngụ cư đă sinh cơ lập nghiệp
trên ba đời th́ cho nhập tịch ở xă ấy. Xă
nào chứa chấp người trốn tránh th́ bản thân
người trốn tránh và cả xă trưởng sở tại
đều bị trừng phạt. Những nông dân lưu tán
trở về quê được cấp ruộng đất
cày cấy.
Đối với các làng
xă quá thời hạn quy định mà không thanh toán hết
diện tích th́ ruộng đất công bỏ hoang sẽ phải
nộp thuế gấp đôi, ruộng đất tư bỏ
hoang sẽ bị tịch thu làm ruộng công.
Việc
giải quyết t́nh trạng phiêu tán và thanh toán ruộng
đất bỏ hoang là hai biện pháp chủ yếu để
phục hồi, phát triển nền nông nghiệp ở Phú
Yên lúc này. Nhờ vậy đến “1791 mùa màng trở lại
phong đăng, năm phần mười trong nước
khôi phục được cảnh thái b́nh”([55]).
Việc thực thi và triển khai các chính sách về nông nghiệp
dưới thời Tây Sơn ở Phú Yên đă nhanh chóng khắc
phục nạn lưu vong và t́nh trạng ruộng đất
bỏ hoang sau hàng thế kỷ loạn lạc kéo dài.
Không chỉ
chăm lo phục hồi, phát triển kinh tế nông nghiệp,
quan quân nhà Tây Sơn ở Phú Yên c̣n băi bỏ chính sách “ức thương” phản động của họ
Nguyễn trước đây và thực hiện chính sách phát
triển công thương nghiệp. Gần 30 năm (1776 -
1802) dưới triều Tây Sơn, hoạt động công
thương ở Phú Yên có nhiều khởi sắc. Những
xưởng thủ công của nhà nước vẫn duy tŕ
đóng thuyền, sản xuất vũ khí và một số
sản phẩm đặc biệt cho nhà nước.
Năm 1788, sau khi lên ngôi,
Quang Trung cho đúc một loại tiền đồng mới
(Quang Trung thông bảo). Nếu tính chung triều đại
Tây Sơn với gần 30 năm ngắn ngủi (1776 -
1802), nhà Tây Sơn đă đúc 37 kiểu tiền [kể cả
“Thái Đức thông bảo” của Nguyễn Nhạc và “Cảnh
Thịnh thông bảo” của Quang Toản].
Trên địa bàn Phú Yên,
tiền Quang Trung được lưu hàng rộng răi từ
miền biển đến vùng miền núi xa xôi. Về số
lượng, đồng tiền Quang Trung áp đảo tất
cả các loại tiền Việt
Theo cử nhân Nguyễn Danh
Hạnh – hiện công tác tại Bảo Tàng Phú Yên – hầu
như tất cả các di chỉ khảo cổ được
khai quật ở Phú Yên từ
trước đến nay, đối với những di
tích có tiền cổ th́ tiền Quang Trung chiếm tỉ lệ
khá cao.([57])
Về thuế và thi hành
những chính sách thuế khoá trên địa bàn Phú Yên dưới
thời Tây Sơn là tương đối hợp lư và
đơn giản. Ngạch thuế ruộng đất
công, tư được thi hành thống nhất cho tất
cả các vùng trong toàn trấn Phú Yên. Thuế ruộng, thời
kỳ này được chia làm hai loại: ruộng công và
ruộng tư, mức thuế khác nhau.
Ruộng công chia cho dân
trong xă cày cấy nộp tô thuế như sau:
- Ruộng
hạng nhất, mỗi mẫu nộp 150 bát thóc.
- Ruộng hạng hai, mỗi
mẫu nộp 80 bát thóc.
- Ruộng hạng ba, mỗi
mẫu nộp 30 bát thóc.
Thuế ruộng đất
tư cũng chia làm 3 hạng:
- Ruộng hạng nhất,
mỗi mẫu nộp 40 bát thóc.
- Ruộng hạng hai, mỗi
mẫu nộp 30 bát thóc.
- Ruộng hạng ba, mỗi
mẫu nộp 20 bát thóc.
Ngoài ra mỗi mẫu ruộng
công c̣n nộp thêm tiền thập vật 1 tiền và tiền
khoán khố 50 đồng tiền; ruộng tư: tiền
thập vật 1 tiền và tiền khoán khố 30 đồng
tiền.
Dưới thời Quang
Trung đất vườn được miễn thuế.
Chính sách thuế ruộng đơn giản hơn trước,
không những giảm nhẹ một phần nào mức
độ đóng góp cho nhân dân, mà c̣n ngăn ngừa bớt
tệ tham ô, sách nhiễu của bọn quan lại.
Theo tinh thần “bớt
thuế, thương dân”, các loại thuế nhân
đinh, thuế thổ sản, thuế công thương ở
Phú Yên đều được giảm nhẹ hay băi bỏ.
Về thuế thổ sản và thuế công thương
nghiệp - ở Phú Yên dưới triều Tây Sơn - cũng
băi bỏ một số sắc thuế nặng nề
trước kia, nhằm tạo điều kiện sản
xuất và kinh doanh dễ dàng cho giới công thương.
Những cải cách tiến
bộ của Quang Trung về kinh tế, tài chính đă có những
tác động nhất định đối với nhân
dân Phú Yên, góp phần mở đường cho sức sản
xuất phục hồi và phát triển.
*
* *
Nh́n
chung, những chính sách kinh tế – xă hội của triều
đại Tây Sơn đă đáp ứng yêu cầu phát triển
cấp thiết của xă hội, có tác dụng và ư nghĩa
rất quan trọng đối với Phú Yên và cả nước
vào cuối thế kỷ XVIII.
Thoát thai từ phong trào
nông dân, triều đại Tây Sơn muốn xây dựng một
chế độ quân chủ tiến bộ hơn, muốn
nước nhà mau chóng trở nên cường thịnh. Hoài
băo đó được thể hiện rơ ràng trong nội
dung tất cả những chính sách của Quang Trung. Những
chính sách đó đều nhằm khắc phục những
hậu quả khủng hoảng, phục hồi nông nghiệp,
phát triển công thương nghiệp, góp phần quan trọng
vào việc phát triển nền kinh tế hàng hoá, tạo khả
năng mở đường cho sức sản xuất
phát triển.
Song, về phần thực
hiện, những chính sách tiến bộ của Quang Trung
đă gặp rất nhiều hạn chế. Về mặt
thời gian, triều Quang Trung tồn tại quá ngắn ngủi.
Triều vua Quang Toản sau đó tỏ ra bất lực
không tiếp nối được những chính sách tích cực
của Quang Trung, để cho những mâu thuẫn nội
bộ phát triển làm cho thế lực triều đại
Tây Sơn chóng suy tàn. Hơn nữa, trong khi Quang Trung cố
gắng xây dựng một chính quyền quân chủ tiến
bộ và dốc nhiều tâm lực vào việc cầu hiền,
th́ bọn quan lại, địa chủ ở một số
địa phương ngấm ngầm phá hoại. Họ
thường t́m cách xuyên tạc chính sách hoặc lợi dụng
chính sách để tham ô, nhũng nhiễu dân chúng, biến
các chủ trương tích cực thành những việc phiền
hà.
Những hạn chế
trên làm cho những chính sách cải cách của Quang Trung
chưa phát huy được hết tác dụng tích cực
của nó.
Tuy nhiên, những cố gắng
của Quang Trung không phải là vô ích. Trong thực tế, với
những cố gắng mạnh bạo, phù hợp xu thế
thời đại, Quang Trung đă hé mở lối thoát cho
xă hội Việt
VIỆC
THỰC HIỆN CÁC CHÍNH SÁCH CỦA TRIỀU NGUYỄN
VÀ THỰC TRẠNG
KINH TẾ – XĂ HỘI TỈNH PHÚ YÊN
TRONG THẾ KỶ XIX
ThS. Phạm
Ngọc Trâm(*)
1 – BỐI CẢNH LỊCH SỬ TỈNH
PHÚ YÊN NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỶ XIX
Trải qua một thời
gian chiến tranh loạn lạc kéo dài trong thế kỷ
XVII, nhất là trong 30 năm cuối của thế kỷ
XVIII Phú Yên là vùng chiến địa của cuộc chiến
tranh giữa hai nhà Nguyễn: Nguyễn Tây Sơn và Nguyễn
Ánh, đă làm cho nền kinh tế – xă hội Phú Yên vốn
đă thấp kém, nay lại càng sa sút nghiêm trọng hơn.
Trên một vùng đất,
chỉ trong ṿng 30 năm (cuối thế kỷ XVIII) phải
đối phó hơn 5 lần tấn công quy mô lớn của
Nguyễn Ánh– không tính các lần tấn công nhỏ, lẻ tẻ
hoặc như những trận “giặc mùa”; một
vùng đất chỉ có hơn một vạn dân mà xuất
hiện hai phong trào đối kháng nhau: phong trào Tây Sơn
hàng ngàn người hưởng ứng và phong trào “Lương Sơn Tá Quốc” ủng
hộ chúa Nguyễn có hơn 1.000 người tham gia, do Châu
Văn Tiếp trực tiếp lănh đạo. T́nh h́nh
đó làm cho triều đ́nh nhà Nguyễn buộc phải
thi hành nhiều chính sách khá đặc biệt trên mảnh
đất này, như tăng cường đôn quân (3
đinh, 1 lính), đàn áp những phần tử thân Tây
Sơn (trước đây), tăng cường đội
ngũ quan lại từ Huế vào …
Sau
khi lên ngôi hoàng đế, Nguyễn Ánh phong tướng cho
những người pḥ tá, kiểm lại các đơn vị
hành chính cũ, đặt quan chức cai quản và trả
thù những người tham gia phong trào Tây Sơn; truy lùng bộ
tướng Tây Sơn c̣n trốn tránh trên rừng núi, nhất
là vùng rừng núi hai tỉnh B́nh Định – Phú Yên, nơi
được xem là trung tâm của phong trào.
Ở
Phú Yên, để nhổ cỏ tận gốc, Nguyễn Ánh
lệnh cho quan binh truy tầm bà con gần xa của họ
Nguyễn Tây Sơn và các bộ tướng nổi tiếng
của Quang Trung có quê quán (hoặc có thời gian sinh sống)
ở Phú Yên như: Vơ Văn Dũng, Nguyễn Nhưng Huy, Bốn
Linh (Tư Linh), Lưu Quốc Hưng, Vơ Văn Cao, Nguyễn
Văn Lộc, Nguyễn Quang Huy, Phan Văn Biên…
Lúc này, Vơ Văn Dũng lui về ẩn náu sâu trong
vùng núi An Khê. Đến 10 năm sau - dưới thời Thiệu
Trị - ông già và mất; khoảng năm 1907 con cháu mới
lấy hài cốt về an táng ở Phú Phong – B́nh Định.
Khi triều Tây Sơn hoàn toàn sụp đổ, Nguyễn
Quang Huy đă cho giải tán nghĩa binh, lên núi Dương
An nương náu, thỉnh thoảng về Phú Yên thăm quê
hương ([58]).
Quan quân triều Nguyễn
ở Phú Yên ḍ biết tung tích một số cựu tướng
nhà Tây Sơn đă t́m đủ mọi cách để tận
diệt, nhưng núi non hiểm trở lại thêm nhân dân
địa phương che chở, nên đa số đều
sống yên ổn. Tuy vậy, phần lớn bà con, ḍng họ
các tướng lính của Tây Sơn ở Phú Yên đều
phải đổi họ, hoặc phải che dấu thân phận,
tiêu hủy những văn tự có liên quan đến nhà
Tây Sơn để tránh sự truy sát tàn bạo của triều
đ́nh([59]).
Bên cạnh việc trả
thù những người tham gia phong trào Tây Sơn ở Phú
Yên, ngay từ đầu, triều Nguyễn tập trung xây
dựng bộ máy chính quyền quân chủ chuyên chế – thực
chất như một chế độ quân quản. Nhận
định về tổ chức bộ máy nhà nước
triều Nguyễn, PGS Sử học Đỗ Bang viết:
“Với quan điểm trị nước theo định
hướng Nho giáo, triều Nguyễn đă tham khảo mô
h́nh tổ chức bộ máy nhà nước thời Minh,
Thanh của Trung Quốc, nâng cao và hoàn thiện bộ máy nhà
nước thời Trần, Lê thành bộ máy nhà nước
quân chủ vững mạnh, tự tôn và bành trướng.
Nhưng bộ máy nhà nước quân chủ chuyên chế
đó ngày càng xa rời thực tế, bảo thủ, cố
chấp, kém hiệu lực rồi trở nên lạc hậu
trước những trào lưu canh tân và Âu vào nửa sau thế
kỷ XIX … Triều Nguyễn là một triều đại
chuyên chế cực đoan”([60]).
2 – XÂY DỰNG CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC
QUÂN CHỦ CHUYÊN CHẾ Ở PHÚ YÊN.
2.1. Tổ chức bộ máy nhà nước
tỉnh Phú Yên (1802 - 1884).
Về tổ chức bộ
máy triều Nguyễn nh́n chung là vẫn theo mô h́nh nhà Lê, quyền
lực tập trung trong tay nhà vua. Giúp việc cho vua có sáu bộ:
Bộ Hộ (tài chính, kho tàng, vật giá…), Bộ Lại
(tuyển chọn quan lại, ban phẩm tước, soạn
thảo chiếu chỉ…), Bộ Lễ (thi cử, tế lễ,
phong thần …), Bộ Binh (tuyển lính, các ngạch vơ quan,
điều động quân đội, an ninh xă hội …), Bộ
H́nh (soạn luật, thi hành h́nh phạt, xét duyệt tố
tụng …), Bộ Công (xây dựng cung điện, lăng tẩm,
thành lũy, đóng tàu thuyền, đắp đường
sá, mua vật liệu…). Đứng đầu mỗi bộ
là một Thượng Thư, hai quan Tả Tham Tri và hai Tả
Hữu Thị Lang. Ngoài ra c̣n có các cơ quan chuyên môn như
Đô Sát Viện, Quốc Tử Giám, Hàn Lâm Viện, Thái Y Viện,
Nội Vụ Phủ …
Lúc
bấy giờ, cả nước có 23 trấn và 4 doanh. Tỉnh
Phú Yên ngày nay gọi là Phú Yên trấn.
Dưới trấn là phủ,
huyện. Trấn Phú Yên có hai huyện: Đồng Xuân và Tuy
Ḥa. Toàn trấn có 2 huyện, 7 tổng, 204 xă. Đến
năm 1831, với cuộc cải cách hành chính lần thứ
nhất, Minh Mạng đổi trấn
Phú Yên thành tỉnh Phú Yên và đặt chức Tuần Phủ, Bố Chính.
Tổng Đốc coi việc
quân, việc dân, khảo hạch quan lại cấp dưới,
sửa sang bờ cơi trong hạt. Tuần Phủ th́ coi việc
chính trị giáo dục và giữ ǵn phong tục. Bố Chính
th́ coi việc thuế má, đinh – điền, lính tráng và
triều đ́nh có án trạch hay là cấm lệnh điều
ǵ, phải có trách nhiệm truyền đạt cho mọi
nơi trong tỉnh biết. Án Sát thi coi việc h́nh luật
và kiêm cả việc trạm dịch, bưu truyền. Lănh
Binh th́ chuyên coi việc binh lính. Từ Tuần Phủ trở
xuống đều phải theo lệnh quan Tổng Đốc.
Tại Phú Yên, không đặt ra chức Tổng Đốc.
Đứng đầu tỉnh Phú Yên là quan Tuần Phủ.
Quan Tổng Đốc B́nh – Phú trông coi hai tỉnh B́nh Định
và Phú Yên.
Nh́n chung, bộ máy hành
chính ở tỉnh Phú Yên và các huyện thời kỳ này rất
phức tạp, lại thường xuyên thay đổi chức
năng, chức trách, chức danh nhiều lần. Từ
năm 1831 trở đi ở Phú Yên lập thêm hai Ty: Tả
Thừa và Hữu Thừa, sau lại đổi làm Ty Phiên
và Ty Niết. Ty Phiên do một Kinh
Lịch nắm với những thuộc viên, giúp quan Bố
Chính lo việc hộ trong tỉnh. Ty Niết do một Thông
Phán và một số thuộc viên, giúp quan Án Sát về h́nh.
Ngoài cơ quan hành chính
tư pháp nêu trên, ở Phú Yên c̣n có một số cơ quan
chuyên môn nằm dưới quyền Tuần Vũ, Bố
Chính, Án Sát và theo ngành dọc chuyên môn.
Về học chính có quan
Đốc Học (tỉnh), cùng với Giáo Thụ, Huấn
Đạo (phủ, huyện) làm thành hệ thống học
chính. Cơ quan lo Y tế nằm trong ngành dọc từ
trung ương xuống tỉnh, gọi là Ty Lương Y,
do một Y Sinh, Y Thuộc trông coi. Ty Chiêm Hậu là một tổ
chức ngành dọc của Khâm Thiên Giám do một Linh Đài
Lang quản lư. Ty Lễ Sinh có chức Lễ Sinh Hiệu.
Ở hai huyện Tuy Ḥa
và Đồng Xuân, đứng đầu là Tri huyện. Ở huyện cũng có bộ máy hành
chính giúp việc như cấp tỉnh, nhưng đơn
giản hơn, gồm: Lại Mục, Thông Lại (c̣n gọi
là Thừa Phái) cùng với đội bảo vệ (hay gọi
là lính lệ, lính giản) do một viên Lệ Mục chỉ
huy.
Toàn tỉnh Phú Yên, đầu
thế kỷ XIX có 7 tổng. Đây là đơn vị hành
chính trung gian giữa huyện và xă, vừa là cấp trên của
xă - tùy từng lúc. Mỗi tổng có một Tổng Trưởng
(c̣n gọi là Cai Tổng hay là Chánh Tổng) và một hoặc
hai Phó Tổng (do Lư Trưởng các xă trong tổng bầu
lên ba năm một lần). Do tính chất trung gian là chủ
yếu, cơ quan tổng chỉ có vài ba người và do một
Tổng Đoàn phụ trách.
Xă là đơn vị
dưới huyện (hoặc tổng). Xă có một thể
chế truyền thống (lệ làng) bên cạnh pháp luật
chung; ba năm bầu cử một lần, chọn Lư
Trưởng, Phó Lư. Ngoài Lư Trưởng, Phó Lư c̣n chọn Hội
Đồng Hương Mục.
Quan lại ở Phú Yên
hưởng lương theo phẩm hàm, không có ruộng lộc
mà chủ yếu nhận tiền và gạo. Thời Gia Long
quan nhất phẩm được cấp hàng năm 600
quan tiền và 600 phương gạo, cửu phẩm
được cấp 16 quan tiền và 16 phương gạo.
Thời Minh Mạng thực hiện theo quy chế năm
1827:
- Nhất phẩm
được cấp 400 quan và 300 phương gạo, áo
quần 70 quan, tiền tuất 400 quan.
- Ṭng nhất phẩm
được cấp 300 quan và 200 phương gạo, áo
quần 60 quan, tiền tuất 300 quan.
… Ṭng cửu phẩm
được cấp 18 quan và 16 phương gạo, áo quần
4 quan, tiền tuất 40 quan.
Ruộng đất th́
hưởng theo phép quân điền [xem thêm phần 3 viết
về kinh tế].
Ở Phú Yên không có quan lại
phẩm hàm lớn. Song có một nhân vật định
cư khá lâu ở Phú Yên có hàm quan nhất phẩm là Châu
Văn Tiếp.
Châu Văn Tiếp sinh ra ở
Phù Ly([61])
làm nghề buôn nhưng giỏi vơ. Đầu những
năm bảy mươi của thế kỷ XVIII ông
đem cả gia đ́nh vào, cất nhà ở vùng phía Tây Tuy
An, giáp với Sơn Ḥa (ngày nay). Châu Văn Tiếp chiêu mộ
hơn ngh́n người ở Phú Yên dựng cờ khởi
nghĩa. Cờ thêu bốn chữ “Lương Sơn Tá Quốc”, nêu cao khẩu hiệu
pḥ chúa Nguyễn diệt Tây Sơn. Năm 1774, Trấn thủ
Phú Yên là đô đốc Nguyễn Văn Lộc đem quân
vây đánh. Quân Châu Văn Tiếp chưa được huấn
luyện thuần thục, vừa xáp trận đă ră tan.
Châu Văn Tiếp tẩu thoát, lên núi theo đường
thượng đạo chạy vào Gia Định cung thuận
chúa Nguyễn, và lập nhiều công lớn, là một trong
những khai quốc công thần của triều Nguyễn.
Tại Phú Yên, triều
đ́nh đặt ra phép giản binh, cứ ba dân đinh lấy
một lính; thành lập 10 đội lính chuyên trách, như lính cơ, lính mộ, mỗi
đội 50 lính; toàn tỉnh có 7 thớt voi. Cơ binh là lính riêng của từng
tỉnh, toàn tỉnh Phú Yên lúc bấy giờ có 10 cơ;
đứng đầu cơ là Quản
Cơ; dưới cơ
là đội, cai quản
đội là Suất Đội.
Ngoài ra, chính quyền c̣n đặt biền – binh ban – lệ, “nghĩa là các binh lính chia
làm ba phiên, hai phiên về quân, c̣n một phiên ở lại
ban luân lưu thay đổi cho nhau”([62]).
Binh khí của quân lính trong tỉnh chủ yếu là
gươm, giáo, mă tấu … Tại cửa biển Xuân
Đài có làm đồn đặt súng lớn, súng nhỏ
để pḥng giữ. Súng lớn bằng đồng gọi
là đại bác; súng nhỏ
gọi là súng thạch cơ
điểu thương; khi bắn th́ mổ bằng máy
đá lửa.
Từ năm 1812 (thời
Gia Long), nhà vua quy định quan lại các trấn khi có lệnh th́ phải trưng dụng hương binh. Đến thời
Tự Đức quy định này trở thành quy chế
chung, tại Phú Yên đă đặt thêm ngạch hương dũng, thổ dũng
ở các huyện, xă.
Ngoài các sắc lính: lính
cơ, lính mộ, hương dũng, thổ dũng, trong
thời kỳ này ở Phú Yên c̣n có một loại lính khác
là lính trạm – loại lính
nửa binh, nửa dịch, không được cấp
lương, chỉ được miễn thuế thân và
các tạp dịch khác, nhưng vẫn biên chế theo đội
ngũ như binh lính. Quy định này được áp dụng
ở Phú Yên từ đầu triều Nguyễn đến
đời vua Tự Đức được bổ sung lệ
thưởng tùy theo mức độ khẩn cấp. Trạm
nhiều việc nhất được thưởng 10
phương gạo, trạm ít việc nhất được
thưởng 4 – 5 phương gạo và chỉ thi hành trong
ṿng một năm (quy định năm 1854). Phụ trách
nhà trạm là một viên chủ sự, hai viên thư lại
hàm chánh bát phẩm, hai viên thư lại hàm chánh cửu phẩm,
15 vị nhập lưu thư lại và các phu trạm.
Đầu thời kỳ
triều Nguyễn, trên địa bàn Phú Yên có 5 trạm,
đến thời Tự Đức tăng lên hai trạm,
là 7 trạm([63]).
Mỗi dịch trạm cách nhau từ 20 – 36 dặm. Phu trạm
từ 30 – 100 người, tùy theo mức độ hiểm
trở của đường sá.
1. Trạm B́nh Phú
được lập từ thời Gia Long, nằm trên
đèo Cù Mông, điểm giáp ranh giữa hai tỉnh Phú Yên
và B́nh Định. Trạm này cách trạm B́nh Điền
(B́nh Định) về phía nam 30 dặm 72 trượng 3
thước.([64])
2. Trạm Phú Khê đặt
ở thôn B́nh Thạnh (thuộc xă Xuân Lộc – Sông Cầu
ngày nay). Trên đường thiên lư xuyên Việt, trạm Phú
Khê nằm giữa núi Yên Beo (ở phía đông trạm cao 336
mét) và núi ông Ba Kinh (ở phía tây trạm). Trạm này cách trạm
B́nh Phú 24 dăm 104 trượng.
3. Trạm Phú Thường
(trước năm 1822 có tên Phú Đường) đặt
tại thôn Khoan Hậu (huyện lỵ huyện Đồng
Xuân, từ thế kỷ XVIII, nay thuộc xă Xuân Thọ –
Sông Cầu). Trạm này cách trạm Phú Khê ở phía bắc
28 dặm 105 trượng.
4. Trạm Phú Tân đạt
tại thôn Phú Tân (An Cư – Tuy An ngày nay), cách trạm Phú
Thường 27 dặm 107 trượng 5 tấc.
5. Trạm Phú Vĩnh (Phú
Vang) đặt tại thôn Phú Vinh - Tuy An (nay thuộc B́nh Kiến
– thành phố Tuy Ḥa); cách trạm Phú Tân 27 trượng 5
thước.
6. Trạm Phú Thịnh
(Phú Thạnh) đặt ở thôn Trường Thạnh –
Tuy Ḥa. Thời Gia Long được gọi là trạm Phú
Đê, năm 1824 đổi thành trạm Phú Thịnh. Trạm
Phú Thịnh cách trạm Phú Vinh 23 dăm 96 trượng.
7. Trạm
Phú Ḥa đặt trên dăy núi Đại Lănh trên đường
qua đèo Hổ Dương (Đèo Cả), cách trạm Phú
Thịnh 23 dặm 75 trượng.
Lương bổng của
binh lính ở Phú Yên thời Nguyễn, gồm ba loại: ruộng
lương, ruộng khẩu phần và lương hàng
tháng. Mỗi binh lính được cấp từ 0,7 đến
1 mẫu ruộng lương (dân đinh 0,5 mẫu).
Lương tháng lính được cấp bằng tiền
và gạo. “Căn cứ cách tính của Pierre PASQUIER, đồng
thời căn cứ lệ thuế năm 1812, cứ 1 quan
tiền cho ngang 1 phương gạo, th́ lương tháng phổ
biến của một người lính thời Nguyễn
tương đương 67 kg gạo” ([65])
Với chế độ
binh dịch nặng nề, 3 đinh lấy 1 lính làm cho t́nh
h́nh xă hội ở Phú Yên khá căng thẳng và nặng nề.
Toàn tỉnh Phú Yên vào năm 1819 có 46.900 mẫu ruộng, với
7.651 hộ; ước tính có: 14.000 dân đinh, số binh
lính chừng 2.600 người (chưa kể hơn 300 lính
trạm – loại lính nửa binh, nửa dịch). Như vậy
số binh lính chiếm tỉ lệ khá cao. Đây là gánh nặng
cho nhân dân Phú Yên thời kỳ này.
2.2. Hệ thống chính quyền thực
dân phong kiến ở Phú Yên, từ 1884 đến đầu
thế kỷ XX.
Ngày
Thi hành chính sách chia để
trị thực dân Pháp chia nước ta làm 3 kỳ: Bắc
kỳ, Trung kỳ và
Từ năm 1884 đến
đầu thế kỷ XX ở Phú Yên, tồn tại song
song hai hệ thống chính quyền đến cấp huyện
(chính quyền lưỡng thể) của thực dân Pháp và
Nam triều. Đứng đầu tỉnh Phú Yên là Công Sứ, rồi đến Phó Sứ và các
quan giúp việc: Quan Lục bộ, quan Giám binh, quan Thầy
thuốc (Bác sĩ trưởng y tế), quan Chủ sở
điện báo (bưu điện), quan Thú y, quan
Thương chánh…Trong Ṭa sứ có quan Tham Tá, Phán Sự là
người Việt giúp việc cho Pháp.
Bên cạnh hệ thống
chính quyền của Pháp, hệ thống chính quyền của
người Việt cấp tỉnh ở Phú Yên có Tuần
Vũ; phụ tá có: quan Bố Chính, quan Án Sát. Cấp phủ,
huyện có Tri Phủ, Tri Huyện. Công sứ Pháp nắm quyền
chỉ đạo tối cao đối với Tuần Vũ.
Cấp phủ, huyện
có Tri Phủ, Tri Huyện; Về quân đội (người
Việt) có: Quản Cơ, Suất Đội và lính khố
xanh; ở phủ huyện có lính vệ. Dưới huyện
là tổng (lập năm 1812) cấp trung gian giữa huyện
và xă. Trong tổng có có ba loại xă: đại, trung, tiểu.
Cấp xă, có Lư Trưởng,
Ngũ Hương, Hội đồng Kỳ mục. Hội
đồng Kỳ mục, cơ quan bàn bạc và ra những
nghị quyết về công việc, hoạt động của
làng xă. Kỳ dịch, là cơ quan triển khai thực hiện
các chương tŕnh do Hội đồng kỳ mục
đề ra. Đứng đầu Kỳ Dịch là Lư
Trưởng, do Hội đồng Kỳ mục đề
cử, được chính quyền cấp tỉnh công nhận,
là người đại diện chính thức về mặt
pháp lư của làng xă. Ngoài ra ở làng xă c̣n có nhóm Kỳ Lăo, gồm
những người cao tuổi, có uy tín không phải khoa,
hoạn; là bộ phận tư vấn cho Hội đồng
Kỳ mục. Trong xă lại có thôn do Trưởng Thôn nắm.
Thôn lại chia thành giáp (do Giáp Trưởng trông coi). Từ
1885, khi có phong trào nổi dậy của quần chúng nhân dân
hưởng ứng phong trào Cần vương, tại Phú
Yên, từ tỉnh đến phủ, huyện, tổng, xă
c̣n có thêm chức Bang Tá, chuyên quản lư lính địa
phương hay Tuần Đinh để đối phó lại
phong trào cách mạng.
Về vơ quan, tại Phú
Yên, cấp tỉnh, có Đề Đốc, Chánh Phó Lănh Binh,
Quản Cơ, Hiệp Quan, Suất Đội, Đội
Trưởng … cai quản lính “chú” quân (lính địa
phương) dưới sự chỉ huy trực tiếp
của sĩ quan Pháp. Học quan có Đốc học tỉnh,
Giáo Thụ (ở phủ) và Huấn Đạo (ở huyện)
nắm hệ thống giáo dục, thi cử trong tỉnh,
phủ, huyện.
Tóm lại, hệ thống chính quyền thuộc
địa, chính quyền thống trị của tỉnh
Phú Yên thời kỳ 1885-1945 đă quản dân bằng hệ
thống quan liêu, tay sai với nhiều tầng, nấc và
có nhiều đặc quyền, đặc lợi. Ngày nay
nghiên cứu tổ chức bộ máy nhà nước tỉnh
Phú Yên trong thế kỷ XIX với những mặt hạn
chế cũng như tích cực của nó, thiết nghĩ
rất có giá trị trong công cuộc đổi mới xây dựng
đất nước, nhất là đang thực hiện
cuộc cải cách hành chánh, xây dựng bộ máy nhà nước
trong sạch, lành mạnh.
3 –
T̀NH H̀NH KINH TẾ PHÚ YÊN TRONG THẾ KỶ XIX.
Tuy 30
năm dưới thời Tây Sơn (1771 – 1802) với việc
thực hiện những cải cách tiến bộ của
Quang Trung, Phú Yên đă có những bước phát triển
vượt bậc về kinh tế, song thành quả ấy
không bù lại được những tổn hại của
cuộc chiến giữa hai nhà Nguyễn: Nguyễn Tây
Sơn và Nguyễn Ánh trên đất này. T́nh trạng dân ly
tán diễn ra phổ biến, làm cho nền sản xuất
nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương
nghiệp đ́nh trệ nghiêm trọng.
Dưới thời Gia
Long (1802 - 1819) chính quyền tập trung đẩy mạnh
việc khai hoang, khôi phục lại diện tích đất
sản xuất nông nghiệp bị bỏ hoang trước
đó. Năm 1803, theo chỉ dụ của Gia Long, quan tuần
phủ Phú Yên “cho tiến hành một đợt đo
đạc ruộng đất lớn lập “địa bạ”
các xă”([67])
và chiêu tập dân nghèo, cấp thóc cho đi khai hoang, hoặc
khôi phục ruộng đất phế canh bằng cách chiêu
tập dân phiêu tán và đưa tù phạm đi lập trại
ấp khẩn hoang ở các vùng miền núi (Sơn Ḥa, Đồng
Xuân). Việc lập địa bạ ở Phú Yên trải
qua nhiều lần làm đi làm lại, măi đến 1820 mới xong, năm 1831 – 1832 hoàn
chỉnh. Năm 1819, toàn trấn Phú Yên có 46.900 mẫu điền
(chiếm 1,52% cả nước), thuế thóc 14.600 hộc
(chiếm 1,46% cả nước), thuế tiền 13.700 quan
(chiếm 0,52% cả nước)([68]).
Năm 1804, thực hiện
Điều lệ quân điền
của vua Gia Long, mọi người dân ở Phú Yên từ
quan đến binh lính, các hạng dân đinh, kể cả
trẻ mồ côi, đàn bà góa … đều được
chia ruộng công điền, nhiều ít khác nhau tùy theo danh
phận. Theo lệ, ruộng đất được chia
trước cho các quan chức có phẩm hàm (theo thứ tự
trên xuống), sau đến lính và cuối cùng mới đến
xă dân. Tại Phú Yên mỗi người lính được
1 mẫu, xă dân 0,5 mẫu; lính trạm tính theo chế độ
của xă dân.
Tổng
hợp các đối tượng được chia ruộng
công ở Phú Yên:
*
Quan lại (cấp trấn (tỉnh), phủ, huyện,
tổng, xă) ước tính:
- Cấp tỉnh (1): 50 người x 5 mẫu
= 250 mẫu.
- Cấp huyện (2): 60 người x 3 mẫu = 180 mẫu.
- Cấp tổng (7): 49 người x 2 mẫu
= 58 mẫu.
- Cấp xă (204 xă), (mỗi
xă: 30 người):
6.120 người x 1,5 mẫu
= 9.180 mẫu.
* Binh
lính: 2.900 người x 1 mẫu
= 2.900 mẫu.
* Xă dân: 14.000
người x 0,5 mẫu = 7.000 mẫu.
Theo ước tính trên, toàn tỉnh
Phú Yên phải chia ruộng công cho các đối tượng
là 13.568 mẫu, cộng với ruộng đất phải
cấp cho 2 học hiệu, 10 miếu, 5 chùa (tính đến
năm 1819), ước: 50 mẫu. Tổng cộng: 19. 618 mẫu.
Đối chiếu với ruộng đất của cả
tỉnh sau khi chia chỉ c̣n 26. 202 mẫu ruộng đất
tư (46.900 mẫu – 19.618 mẫu).
Căn cứ theo địa
bạ được lập năm 1830 – 1831, phần lớn
nông dân Phú Yên chỉ sở hữu từ 0, 5 đến 1 mẫu,
như vậy trên 2 vạn mẫu ruộng đất ở
Phú Yên đều tập trung trong tay bọn địa chủ
quan lại.
Từ thực tế triển
khai chế độ quân điền của triều Nguyễn
ở Phú Yên thể hiện sự ưu đăi đối với
quan lại và binh lính. Ngoài ruộng khẩu phần binh lính
c̣n được hưởng ruộng phụ cấp, gọi
là ruộng lương, từ 7 sào đến 1 mẫu, tùy
theo mỗi loại lính. Ruộng đất công của Phú
Yên qua thời gian ngày càng ít đi, trong khi đó quan chức,
binh lính… ngày càng tăng lên, do phải bổ sung từ nhiều
nguồn khác nhau, nên ruộng đất công chia cho dân xă ngày
càng ít đi và thường là loại ruộng xấu, không
đủ đảm bảo cày cấy.
Như vậy chính sách quân điền
của triều đ́nh thoáng nh́n bề ngoài có vẻ tích cực,
v́ đă giải quyết được vấn đề
cơ bản của người nông dân là ruộng cày,
nhưng do sự “sinh sôi” của đám quan lại, cộng
với nạn bao chiếm ruộng công, người nông dân
nghèo ở Phú Yên vẫn không có ruộng để cày cấy,
trở thành những tá điền cho địa chủ. Chế
độ quân điền của triều Nguyễn chỉ
c̣n là biện pháp để trói buộc người nông dân
vào làng xă nhằm thực hiện nghĩa vụ tô thuế,
lao dịch và binh dịch đối với nhà nước
quân chủ chuyên chế. So với những năm giữa
thế kỷ XVIII - dưới thời chúa Nguyễn - cái
ṿng luẩn quẩn của sự bất công, nghèo đói tiếp
tục diễn ra dưới triều Nguyễn với mức
độ ngày càng trầm trọng hơn. Yêu cầu hạn
chế nạn kiêm tính ruộng đất trở thành một
vấn đề cấp bách.
Thời Minh Mạng, diện
tích ruộng đất công của làng xă càng bị thu hẹp
hơn. Nhà vua nhiều lần đắn đo, suy tính về
các đề nghị của quan lại muốn lấy bớt
ruộng tư của địa chủ nhập vào ruộng
công, nhằm đảm bảo nguồn tô thuế của
nhà nước. Năm 1838, Tổng Đốc B́nh - Phú (bao gồm
hai tỉnh B́nh Định, Phú Yên) là Vũ Xuân Cẩn dâng sớ
báo cáo t́nh h́nh ruộng đất công ngày càng bị địa
chủ kiêm tính “người nghèo không một thước,
một tấc đến nỗi phải làm đầy tớ
cho người”. Do đó Vũ Xuân Cẩn đề nghị
“phàm ruộng tư, định hạn 5 mẫu, ngoài ra lấy
làm ruộng công cả, chia cấp cho binh dân để làm ruộng
lương, ruộng khẩu phần”. Ban đầu, vua
Minh Mạng bác bỏ đề nghị này, phê rằng:
“Tư điền thế nghiệp đă lâu, sổ sách
đă thành, nay vô cớ cắt huyết mạnh của
người ta, không phải là điều yên ổn cho nhân
dân, một phen canh cải đổi mới, sợ chưa
thấy lợi mà thành nhiễu sự”. Về sau do thực tế yêu cầu,
vua Minh Mạng phải ban lệnh sung công (có tính chất thí
điểm) một nửa số ruộng đất
tư ở B́nh Định, đem chia cho dân theo phép quân
điền. Kết quả, theo lời tâu của Thượng
thư bộ h́nh Đặng Văn Thiêm với Tự Đức:
“Lúc trước định lệ quân điền, cứ
10 mẫu th́ 5 mẫu làm công, 5 mẫu làm tư. Nhưng ruộng
công màu mỡ th́ cường hào cưỡng chiếm, c̣n thừa
chỗ nào th́ hương lư bao chiếm, dân chỉ
được phần xương xẩu mà thôi”. Khi Tự
Đức hỏi Thượng Thư Bộ Hộ Hà Duy
Phiên có nên trả ruộng cho địa chủ B́nh Định
không, th́ Duy Phiên cho rằng “tăng giảm thêm bớt
không bao nhiêu mà lại sinh ra việc phiền phức bối
rối”([69]).
Qua những sự kiện trên, chứng
tỏ t́nh h́nh bao chiếm ruộng đất ở Phú Yên
và B́nh Định diễn ra khá nghiêm trọng, điển
h́nh trong cả nước lúc bấy giờ. Nhưng khi giải
quyết triều Nguyễn chỉ tổ chức thực
hiện có tính chất thí điểm ở B́nh Định,
c̣n ở Phú Yên và các tỉnh khác vẫn duy tŕ t́nh trạng cũ.
Về sau Tự Đức cũng có ư muốn trả lại
ruộng cho địa chủ B́nh Định, song sợ “phiền
phức bối rối” – như lời của Thượng
Thư Bộ Hộ Hà Duy Phiên. Điều đó thể hiện
sự bất lực của triều đ́nh trong việc
giải quyết vấn đề ruộng đất, một
vấn đề nóng bỏng của xă hội Việt
Xuất phát từ t́nh trạng
ruộng đất công càng ngày càng bị chấp chiếm,
ruộng đất canh tác của người nông dân nghèo
ngày càng bị thu hẹp, gây nên sự bất ổn ở
nông thôn, mâu thuẫn giai cấp ngày càng gay gắt, nên việc
khẩn hoang đề ra từ thời Gia Long vẫn
được các đời vua Minh Mạng, Thiệu Trị,
Tự Đức tiếp tục cho triển khai thực hiện
ở Phú Yên. Có nhiều h́nh thức khai hoang, nhưng quan trọng
nhất là h́nh thức doanh điền. Doanh điền
được thực hiện bằng cách di dân lập ấp.
Năm 1828, trên cơ sở đề xuất của Nguyễn
Công Trứ, triều đ́nh chủ trương thành lập
Nha dinh điền sứ tại
các tỉnh.
Nha dinh điền sứ
Phú Yên tiến hành mộ dân thành lập các lư, ấp, với phương thức ai mộ
được 50 người lập thành một lư, th́ được làm Lư
Trưởng, mộ được 30 người lập
thành một ấp th́ được làm Ấp Trưởng.
Sau 3 năm khai khẩn thành ruộng, nhà nước bắt
đầu thu thuế theo lệ thuế tư điền.
Trên thực tế, tùy theo điều kiện từng
nơi, có khi thời hạn miễn thuế kéo dài 5 năm.
Ngoài ra, nhà nước c̣n cấp tiền cho dân khai hoang, cứ
60 người được cấp 100 quan tiền làm nhà
cửa, 300 quan tiền mua trâu ḅ để cày, 40 quan tiền
mua điền khí.
Dưới triều Tự
Đức, công cuộc khai hoang được đẩy
mạnh lên một bước, Nha dinh điền sứ Phú
Yên quy định cứ 50 người dân lập thành một
đội, 500 người lập thành một cơ. “Nha
dinh điền sứ các tỉnh B́nh Thuận, Khánh Ḥa, Phú
Yên c̣n có nhiệm vụ thu nạp dân lục tỉnh Nam kỳ
“tỵ địa”, cấp tiền gạo đi khai hoang.
Tính đến năm 1865 đă có 500 dân
Theo quy định của
triều đ́nh, tại Phú Yên, công điền được
giao cho làng xă phân, cấp, không được mua bán. Khi cần
thiết, nhà nước có thể sử dụng ruộng
đất công làng xă (có bồi thường hoặc miễn
thuế). Ngoài ra, c̣n một số ruộng khác cũng thuộc
diện công điền, như: trợ sưu điền,
học điền, bổn thôn điền, tự điền
… nhưng số này chiếm tỉ lệ nhỏ.
Về thuế ruộng, nhà
Nguyễn, thời Gia Long đánh thuế theo bốn khu vực;
Phú Yên nằm trong khu vực 1. Đến năm 1836, vua Minh
Mạng định lại thuế ruộng đất, quy
về ba khu vực đánh thuế, Phú Yên vẫn nằm
trong khi vực 1, từ Quảng B́nh vào Khánh Ḥa – khu vực
có mức thuế cao nhất. Biểu thuế như sau:
Loại ruộng |
Công điền |
Tư điền |
Hạng nhất Hạng nh́ Hạng ba |
40 thăng/mẫu 30 thăng/mẫu 20 thăng/mẫu |
40 thăng/mẫu 30 thăng/mẫu 20 thăng/mẫu |
Đến
năm 1875, Tự Đức xuống dụ áp dụng thuế
lệ đồng nhất trong cả nước: công
điền và tư điền đều chia làm ba hạng,
nộp thuế thóc mỗi mẫu 40 thăng, 30 thăng, 20
thăng.
Về thủ công nghiệp và
thương nghiệp, chính sách của triều Nguyễn
nh́n chung là lạc hậu, một số chính sách c̣n bộc
lộ rơ tính chất phản động, như “bế
quan tỏa cảng”, nên nền kinh tế thủ công nghiệp,
thương nghiệp của Phú Yên (nói riêng) và cả nước
(nói chung) hầu như “dậm chân tại chỗ”,
không phát triển so với triều đại Tây Sơn.
Trên địa bàn Phú Yên, trong thế kỷ XIX, chủ yếu
vẫn duy tŕ và phát triển các nghề truyền thông,
như: dệt lụa, dệt chiếu, nấu đường,
đan đát mây tre, đúc đồng … Nhiều sản phẩm
của nghề thủ công ở Phú Yên đă nổi tiếng
từ rất lâu như: lụa lănh Ngân Sơn, chiếu Cù
Du, đường.
Về thương nghiệp, nhờ có chiều dài của biển
đông qua tỉnh, lại có hệ thống cảng biển,
sông ng̣i phân bổ đều khắp, nên trong thế kỷ
XIX nền kinh tế thương nghiệp Phú Yên cũng có
một số mặt phát triển. Dân chúng buôn bán trao đổi hàng hóa ở các chợ, bến
cảng và giao dịch trường. Chợ, thường
được h́nh thành ở những vùng b́nh nguyên dân
cư đông đúc; giao dịch trường th́ ở
vùng núi, thuận đường giao thông để trao
đổi giữa miền ngược với miền
xuôi.
Căn
cứ theo Niên giám thuộc địa năm 1891 (có phần
các tỉnh), báo cáo của công sứ Phú Yên – Duviller – vào
năm 1898 ([72])
và “hồi kư về xứ Cochinchine 1774” của Pierre
Poivre ([73])
cho thấy, vùng Sông Cầu có cảng biển, hàng trăm
tàu buôn ra vào tấp nập. Tại Vũng Lấm (Sông Cầu),
một số hăng buôn của người Pháp và người
Hoa đă tổ chức thu mua một số mặt hàng nông
sản để xuất khẩu. Người Hoa đến
Phú Yên từ những thế kỷ trước, thường
lập nghiệp ở những vùng đông dân cư, cảng
biển. Hầu hết số người Hoa ở đây
đều làm nghề buôn bán. Họ buôn những mặt
hàng chiến lược như gỗ, gạo, đường,
vải… cho đến những mặt hàng tạp hóa, thuốc
men.
Hàng
hóa ở Phú Yên được mua bán bằng vàng, bạc,
nhưng thông thường là bằng tiền đồng kim
loại (đồng, kẽm) của triều Nguyễn, triều
Tây Sơn và có cả tiền của Trung Quốc. Người
ta xâu chuỗi 600 đồng tiền thành một quan, mỗi
quan gồm 10 tiền, mỗi tiền có 60 đồng.
4 – THỰC TRẠNG
VĂN HÓA – XĂ HỘI VÀ ĐỜI SỐNG NHÂN DÂN.
Khi xây dựng nhà nước quân
chủ chuyên chế trong thế kỷ XIX, giai cấp thống
trị Việt Nam chưa t́m thấy một mô h́nh nào thích hợp
hơn Nhà nước phong kiến phương Bắc. Các
vua Nguyễn đă xây dựng bộ máy thống trị và
giữ vững kỷ cương xă hội trên cơ sở
ư thức hệ tư tưởng Nho giáo, vừa để
quy tụ ư thức của tầng lớp quan lại, quư tộc
vào một học thuyết nhất định, vừa
định hướng đạo lư của thần dân
theo những quy phạm của triết lư Khổng – Mạnh.
Hệ tư tưởng Nho giáo tồn
tại lâu đời trong xă hội và đời sống
nhân dân Phú Yên, kết hợp với việc thờ cúng thần
linh, tổ tiên được coi là phương tiện tốt
nhất tạo ra mối quan hệ gắn bó giữa triều
đ́nh (người đại diện là vua) và thần
dân. Ư thức hệ chính thống của triều Nguyễn
được nhà nước vận dụng, chuyển hóa
vào đời sống nhân dân ở Phú Yên mà không xa rời bản
sắc dân tộc.
Văn
hóa vật thể quan trọng của Phú Yên trong thế kỷ
XIX, trước hết là kiến trúc nhà cửa, đ́nh,
chùa, miếu mạo, lăng mộ, làm nhà mồ … Tính đến
đầu thế kỷ XIX, trên địa bàn Phú Yên có 5
ngôi chùa lớn. Nhiều ngôi chùa cổ ngày nay c̣n giữ lại
được một số nét kiến trúc cổ khá độc
đáo như: “Từ Quang”, “Hồ Sơn Cổ Tự”, “Bửu
Tịnh”. Nhiều làng nghề truyền thống được
h́nh thành từ thế kỷ XVIII như đúc đồng ở
An Định, dệt chiếu, đan đát mây tre ở
Tuy An, Tuy Ḥa, làm muối ở Sông Cầu …
Những
sinh hoạt văn hóa phi vật thể của thế kỷ
XIX ở Phú Yên c̣n lưu lại có thể kể tên một
vài loại h́nh độc đáo như: Lễ cầu
ngư, lễ tá thổ, lễ đâm trâu xoay cột, bỏ
mả, cúng tiền hiền, thờ thành hoàng, ḥ bá trạo,
bài cḥi, hát bội, ḥ khoan, hát khan (trường ca) … Những
hoạt động và sắc thái văn hóa nêu trên đă
đóng góp một phần cực kỳ quan trọng cho sự
phát triển kinh tế, văn hóa của tỉnh Phú Yên trong
thế kỷ XIX.
Về
giáo dục, như đề cập ngay từ đầu,
nhà Nguyễn lấy ư thức hệ tư tưởng Nho giáo
làm hệ tư tưởng thống trị, do đó hầu
như toàn bộ hoạt động và sự phát triển
của giáo dục ở Phú Yên đều bị Nho giáo chi
phối. Yếu tố nổi bật, có tính nguyên tắc là
mọi người dân, thuộc mọi tầng lớp
đều được đi thi để được
tham gia vào bộ máy nhà nước.
Theo bộ
“Quốc triều hương khoa lục” (1893) của
Cao Xuân Dục với danh sách đăng khoa trong các kỳ
thi hương từ 1807 – 1884 và thi đ́nh từ 1882 – 1884,
Phú Yên cùng một số tỉnh như: Khánh Ḥa, B́nh Thuận,
Biên Ḥa … đều không có người đậu Tiến sĩ.
Về
thi Hương, từ 1807 – 1884, trải qua 31 cuộc thi,
Phú Yên có 13 người đậu cử nhân, vào các
năm 1821, 1831, 1832, 1833, 1835,
1847, 1850, 1855, 1870, 1873, 1876, 1884. Riêng khóa thi năm 1855 đậu
được 2 cử nhân, c̣n lại, mỗi khóa thi chỉ
đậu 1 người. Trong số 13 cử nhân, có 12 cử
nhân ở huyện Đồng Xuân, 1 cử nhân ở huyện
Tuy Ḥa.
Trong
thế kỷ XIX, đời sống
nhân dân Phú Yên vốn đă nghèo
lại càng nghèo hơn. Nông dân lực lượng đông
đảo nhất ở Phú Yên, chiếm 90% dân số, chỉ
sở hữu 5% ruộng đất, họ bị đẩy
vào con đường cùng do thiếu đất sản xuất,
do sưu cao, thuế nặng, do cường hào chèn ép … nên
đời sống của họ vô cùng cơ cực. Buộc
họ phải làm thuê, làm mướn, làm tá điền lĩnh
canh ruộng địa chủ; hoặc lên rừng hái củi
đốt than kiếm sống; hoặc bỏ làng mạc
tha phương cầu thực; hoặc đi phu làm
đường sá, đồn điền…
Cũng
như trong cả nước, thế kỷ XIX là thế kỷ
kém phát triển nhất của Phú Yên.
5
– PHONG TRÀO ĐẤU TRANH CỦA NHÂN DÂN PHÚ YÊN TRONG THẾ KỶ
XIX.
Sau khi xưng đế, Gia Long
đă ra sức khủng bố dă man những gia đ́nh,
ḍng họ của những người đă từng tham
gia phong trào Tây Sơn. Trong hơn 10 năm đầu của
triều Nguyễn cả B́nh Định và Phú Yên đều
được triều đ́nh nhà Nguyễn “quan tâm đặc
biệt”.
Sự
“quan tâm đặc biệt” ấy thể hiện trong
từng chính sách cụ thể, như thực hiện chế
độ quân điền, bố trí quan lại… Trong chính
sách kinh tế, triều Nguyễn đặc biệt quan tâm
phát triển giai cấp địa chủ, quư tộc, quan lại
làm chỗ dựa cho nhà nước; đây là lực lượng
tiên phong trong việc phát hiện và tiêu diệt các mầm
móng hiểm họa trực tiếp đe dọa đến
nền an ninh và sự tồn vong của thể chế. Các
quan lại từ cấp phủ, huyện đến tỉnh
đều được triều đ́nh đưa những
“thành phần cơ bản” là hoàng thân, quốc thích hoặc
chí ít cũng ḍng dơi hoàng tộc, vào cầm quyền ở
Phú Yên.
Rơ
ràng, chính quyền triều Nguyễn đă thực hiện
được tính chuyên chế khá triệt để, nên
những toan tính, cuộc nổi dậy của dân chúng
đă sớm dập tắt từ trong trứng nước.
Một nguyên nhân khác, rất căn bản, làm cho thời kỳ
đầu của triều Nguyễn ở Phú Yên khá yên ổn,
là do dân Phú Yên vừa trải qua hàng thế kỷ chiến
tranh, loạn lạc, nhất là thời kỳ Tây Sơn,
nhân dân Phú Yên phải đối phó với các cuộc tấn
công thường xuyên và liên tục của Nguyễn Ánh suốt
30 năm (1773 – 1802). Bao nhiêu tâm lực, bao nhiêu sức
người, sức của đều đổ dồn
vào cuộc chiến tranh này. Đúng như tâm sự của
Nguyễn Quang Huy (ở Đồng Xuân) vốn là danh tướng
của nhà Tây Sơn, ẩn cư trên dăy Cù Mông, khi đô
đốc Nguyễn Văn Lộc - một cựu thần
Tây Sơn – trước làm quan Trấn thủ Phú Yên, khuyên
ông nổi dậy. “Một hôm ông Lộc hỏi ông Huy:
- Cựu
thần nhà Tây Sơn, văn cũng như vơ, c̣n khá nhiều
tay tài tuấn, sao không hợp sức lại để lo việc
phục hưng? Như thế chẳng ra là không tận
trung với cựu chúa sao?
Ông
Huy đáp:
- Những
anh hùng nghĩa sĩ ra giúp Tây Sơn từ ngày mới khởi
nghĩa đến nay, không ai phụ nhà Tây Sơn. Tất cả
đều lo tṛn bổn phận cho đến giờ chót.
Như thế là tận trung. Nay nhà Tây Sơn đă không c̣n nữa
th́ chúng ta c̣n trung với ai? … Phải nghĩ đến dân
đến nước trước. Không có thể làm lợi
cho dân cho nước th́ nằm yên chớ không nên gây thêm rối.
Trung với một người, một nhà mà làm hại cho
dân cho nước, th́ trung ấy, kẻ chân chính không nên nghĩ
đến. Trung ấy không phải là trung.”([74])
Suốt
trong nửa đầu thế kỷ XIX ở Phú Yên không có
sự nổi dậy nào đáng kể ngoài các một số
cuộc nổi dậy lẻ tẻ nhằm chống
sưu cao, thuế nặng, chống cường hào ác bá, áp
bức bất công hoặc sự bất hợp tác với
chính quyền, hoặc bỏ xứ ra đi.
Hiện
nay, nhiều công tŕnh nghiên cứu về phong trào “Cần
vương” ở Phú Yên đă được công bố, có
chuyên khảo riêng, có chuyên khảo viết chung của các
tác giả: G.S Nguyễn Phan Quang, Th.S Đào Nhật Kim, nhà
nghiên cứu Trần Sĩ Huệ, cử nhân Trần Nam
Phong… Bản thân tác giả, khi viết các công tŕnh lịch sử
của tỉnh[75],
cũng đă đề cập khá nhiều đến phong
trào Cần Vương. Song phần lớn các công tŕnh nêu
trên vẫn chưa dựng lại được bức
tranh lịch sử về phong trào Cần Vương.
Căn
cứ các nguồn tư liệu như:
- Báo cáo của Công sứ tỉnh Phú Yên - Duviller - về
tỉnh Phú Yên.
- Niên
giám thuộc địa năm 1891.
- Báo cáo của Thống đốc
- Báo
cáo của Jamont, ngày
- Báo
cáo của Thiếu tá Delorme, ngày
- Báo cáo của Thiếu ta Dumas gởi Tổng tư lệnh,
ngày
- Kết
quả nghiên cứu của G.S sử học Pháp Charles Foruniau.
… Và một
số nguồn tư liệu khác, cho thấy cuộc khởi
nghĩa của Lê Thành Phương đă tồn tại trên
một b́nh diện rộng lớn, từ B́nh Định
vào B́nh Thuận - Phú Yên là trung tâm, nơi đóng bộ chỉ
huy cuộc khởi nghĩa. “Tất cả những số
liệu và những chỉ dẫn do những lực lượng
đàn áp thực dân cung cấp đă cho thấy rằng ở
hai tỉnh này [Phú Yên, B́nh Định - TG] gần
như là toàn thể dân chúng và các quan lại đă tham gia nghĩa
binh, đây là một hiện tượng phi thường”.([76])
Báo cáo ngày 30-9-1885 của Briérs viết: Ngày 30-8-1885 “một
đội quân tiên phong của đội quân văn thân từ
trên núi đă tràn vào B́nh Thuận và tiến đến vịnh
Phan Rang” … Vào tháng 9-1885 Bùi Giảng rút từ B́nh Thuận
ra với đội quân hàng trăm người tấn công
vào phia bắc Khánh Ḥa. Ngày
Một
số tư liệu trên cho thấy Bùi Giảng, một bộ
tướng của Nguyên soái Lê Thành Phương, đă tung
hoành ngang dọc suốt từ Phú Yên đến B́nh Thuận
làm cho nhà cầm quyền lúng túng, bị động đối
phó, nghĩa binh đă nhiều lần tấn công và làm chủ
nhiều vùng ở các tỉnh B́nh Định, Phú Yên, Khánh
Ḥa, B́nh Thuận… Đúng như nhận định của
Thiếu tá Dumas, một tên thực dân khét tiếng lúc bấy
giờ: “đây là một hiện tượng phi thường”.
Ngày
Nguyên
nhân thất bại của cuộc khởi nghĩa Lê Thành
Phương, một cuộc khởi nghĩa ở Phú Yên -
mở rộng địa bàn đến tận B́nh Thuận,
lại có sự phối hợp chặt chẽ với cuộc
khởi nghĩa của Mai Xuân Thưởng ở B́nh Định
- cho đến nay đă có nhiều cách lư giải khác nhau.
Điểm chung nhất đều thừa nhận, phong
trào thất bại là do đường lối cứu
nước theo hệ tư tưởng cũ, hệ
tư tưởng phong kiến, vốn đă lỗi thời
và lạc hậu, ḱm hăm sự phát triển của xă hội
Việt
Theo
G.S sử học Pháp Charles
Foruniau, sở dĩ Bùi Giảng phản bội là do bố
mẹ ông bị Trần Bá Lộc bắt và uy hiếp.
Nhưng giải thích thế nào khi Bùi Giảng đă về
dưới trướng Phủ Lộc, ông đă chỉ huy
500 quân ráo riết truy lùng Mai Xuân Thưởng? Bùi Giảng
đă bắt được Mai Xuân Thưởng ngày
Phần
lớn thủ lĩnh phong trào Lê Thành Phương ở Phú
Yên đều bị bắt và hành quyết, chỉ có một
số ít trốn thoát, trong đó có Bá Sự.
Bá Sự
tên thật là Nguyễn Hào Sự, người làng Phú Xuân (xă
Xuân Phước huyện Đồng Xuân). Sau khi trốn
thoát sự truy đuổi của thực dân Pháp, ông về
vùng núi huyện Đồng Xuân, lập căn cứ ở
núi Thạch Long Cương, hô hào và tập hợp nhân sĩ,
đồng bào kinh, thượng hai huyện Đồng
Xuân, Sơn Ḥa kháng chiến chống thực dân Pháp và phong
kiến Nam triều. Năm 1892, thực dân Pháp bao vây, tấn
công đàn áp cuộc khởi nghĩa, ông bị bắt và
hành quyết tại băi cát Từng (An Dân – Tuy An). G.S sử học
Pháp Charles Foruniau đánh giá
cuộc khởi nghĩa của Bá Sự như sau: “Bá Sự
đă có công duy tŕ phong trào, tiếp tục xây dựng
căn cứ, đúc súng đạn ở sông Cà Lố, kéo
dài cuộc kháng chiến đến năm 1892”.
Như
vậy, rơ ràng khởi nghĩa của Bá Sự là bước
tiếp nối, “nối dài”của phong trào Cần
vương ở Phú Yên do Lê Thành Phương lănh đạo,
nên nhiều nhà nghiên cứu về phong trào này cho rằng phải
đến 1892 phong trào Lê Thành Phương mới bị dập
tắt.
Về
cuộc khởi nghĩa của Vơ Trứ và Trần Cao Vân
đă có nhiều công tŕnh nghiên cứu lịch sử Phú Yên
phản ánh. Trong bộ Đại cương lịch sử
Việt
“Vơ Trứ quê ở B́nh
Định biết chữ nho, từng làm lư trưởng.
Ông ở chùa, làm nghề thầy thuốc và phù thủy. Với
tinh thần yêu nước, ông đă vận động nhân
dân hai tỉnh B́nh Định và Phú Yên nổi dậy chống
Pháp. Trong quá tŕnh hoạt động, ông được sự
giúp đỡ và phối hợp của một số sĩ
phu ở Quảng Nam, đặc biệt là Trần Cao Vân.
Trần Cao Vân xuất
thân trong một gia đ́nh nho học ở Quảng
Sau một thời gian
tuyên truyền vận động và chuẩn bị, đến
mùa hè năm 1898, hai ông quyết định khởi nghĩa.
Lực lượng nghĩa quân có khoảng 1.000 người
do Vơ Trứ, Trần Cao Vân chỉ huy.
Theo kế hoạch, nghĩa
quân bí mật kéo xuống đánh chiếm tỉnh lị Phú
Yên. Đội quân khởi nghĩa với vũ khí thô
sơ là dao rựa, lại tin vào bùa hộ mệnh, đă
tan ră nhanh chóng khi Pháp nổ súng. Vơ Trứ bị xử tử,
c̣n Trần Cao Vân phải ngồi tù 3 năm.
Mặc dù có nhiều hạn
chế về tư tưởng và tổ chức, các phong
trào đấu tranh vũ trang mang màu sắc tôn giáo vẫn
giữ một vị trí nhất định trong phong trào chống
thực dân Pháp xâm lược cuối thế kỷ XIX của
nhân dân ta.” ([77])
PHONG
TRÀO YÊU NƯỚC CHỐNG PHÁP
TRƯỚC KHI CÓ ĐẢNG Ở PHÚ YÊN
Nguyễn Văn
Thưởng(*)
Phú Yên là một tỉnh duyên hải miền Nam Trung Bộ,
nơi có truyền thống yêu nước và đấu
tranh cách mạng. Từ thời mở nước về
phía
Khi thực dân Pháp bắt đầu xâm lược
nước ta, Phú Yên đă tham gia cùng với cả nước
đấu tranh ngăn cản bước tiến của kẻ
thù. Trước khi có Đảng ra đời và lănh đạo
cách mạng, phong trào yêu nước chống Pháp ở Phú
Yên đă diễn ra liên tục dưới nhiều h́nh thức,
từ cuộc đấu tranh dưới danh nghĩa Cần
Vương rồi phong trào có khuynh hướng mang màu sắc
tôn giáo vào những năm cuối cùng của thế kỷ
XIX đến phong trào chống thuế mạnh mẽ ở
đầu thế kỷ XX.
1. Phú Yên chuẩn bị chống Pháp
xâm lược
Truyền
thống cần cù trong lao động và tinh thần yêu
nước, yêu quê hương h́nh thành trong con người
Phú Yên từ rất sớm. Trong suốt quá tŕnh cải tạo
tự nhiên và đấu tranh xă hội, nhân dân Phú Yên đă
phát huy những truyền thống tốt đẹp của
dân tộc mang sắc thái của địa phương.
Phần
lớn người dân Phú Yên sống bằng nghề nông.
Tuy nhiên, từ nửa sau thế kỷ XIX, dưới thời
các vua triều Nguyễn, quá tŕnh sản xuất thường
bị sâu bệnh, hạn hán, lũ lụt diễn ra liên tục
như các năm 1863, 1864, 1866, 1867, 1878 làm cho năng xuất
trồng trọt rất thấp, t́nh trạng mất mùa
thường xuyên xảy ra cùng với chính sách tô thuế nặng
nề đă làm cho cuộc sống người dân thêm vất
vả, buộc triều đ́nh phải t́m cách điều
khiển giảm thuế tô theo từng phần và phát thóc
kho ở huyện ra cho dân vay.
Đối
với các dân tộc thiểu số ở miền núi Phú Yên
th́ cuộc sống càng khó khăn, vất vả hơn nhiều
do chính sách áp bức, bóc lột nặng nề của triều
đ́nh thực hiện đối với họ.
Hàng
năm các dân tộc thiểu số ở đây phải nộp
thuế lâm thổ sản theo qui định nghiêm ngặt của
triều đ́nh như: sáp ong phải nộp 394 cân (trong
đó nguồn Hà Duy 30 cân), mật ong 625 cân (trong đó nguồn
Hà Duy 300 cân) và ngà voi, bông, trầu không, gỗ trầm, kỳ
nam, sa nhân, dây mây... ([78])
làm cho đồng bào các dân tộc ở đây không đủ
khả năng nộp thuế, đời sống khổ cực,
nạn đói xảy ra liên miên.
Đứng
trước t́nh h́nh kinh tế thấp kém và âm mưu xâm
lược của thực dân, truyền thống yêu nước
chống giặc ngoại xâm, ư thức bảo vệ nền
độc lập dân tộc của nhân dân Việt Nam
được phát huy, nhân dân Phú Yên cùng với cả
nước tích cực đấu tranh bảo vệ Tổ
quốc khi thực dân Pháp kéo đến quê hương.
Điều
đó được thể hiện, khi thực dân Pháp nổ
súng đánh chiếm Đà Nẵng (
Trong thời gian đầu của cuộc
kháng chiến, nhà Nguyễn đă giữ vai tṛ tích cực
trong việc tổ chức cho nhân dân chống Pháp, ở Phú
Yên, trong thời gian này t́nh h́nh giặc biển liên tục
quấy phá, gây nhiều khó khăn cho nhân dân, như báo cáo của
Bộ Lại đề ngày 3-6-1859, về việc “Ngày
9-5 tàu Pháp đến gây sự ở cửa biển Xuân
Đài, thuộc tỉnh Phú Yên. Khi quân triều đ́nh đến
nơi th́ chúng đă lui. T́nh h́nh ở địa
phương này rất căng thẳng; ngoài biển th́ tàu
Pháp và thuyền của Tàu Ô đến đánh phá...”([79]).
Sự quấy phá của giặc biển đă làm cho đời
sống nhân dân Phú Yên càng thêm vất vả, nhưng trước
âm mưu xâm lược của thực dân Pháp ở Nam Kỳ
nhân dân Phú Yên đă tham gia tích cực vào cuộc chiến chống
kẻ thù.
Phú
Yên có Tổng đốc Nguyễn Công Nhàn (1798-1872), người
xă Phú Lộc, tổng Thượng, huyện Đồng
Xuân, phủ Tuy An (nay là thôn Phong Niên, xă Hoà Thắng, huyện
Phú Hoà, tỉnh Phú Yên), là một vơ tướng đă tham gia
từ triều vua Minh Mạng đến triều vua Tự
Đức. Năm 1861, Ông theo lệnh điều động
của triều đ́nh làm chức Tổng đốc Định
Tường cùng tham gia với Nguyễn Hữu Thành, Tôn Thất
Cáp, Phạm Thế Hiển tổ chức kháng chiến chống
Pháp ở lục tỉnh Nam Kỳ.
Trước âm mưu mở rộng
xâm lược của thực dân Pháp, vua Tự Đức
thấy Nam Kỳ ở vào t́nh thế cực kỳ nguy hiểm,
lo sợ sự mở rộng binh lực của Pháp sẽ
đến lượt miền Trung, nên sai Tổng đốc
Nam Ngăi là Đào Trí (1799-1879), quê ở tổng Xuân Đài, huyện
Đồng Xuân (nay là thôn Tân Thạnh, xă Xuân Thọ, huyện
Sông Cầu, tỉnh Phú Yên), sung chức kinh lược
đại thần thiết lập hệ thống pḥng thủ
từ Quảng Nam đến B́nh Thuận([80]),
để chuẩn bị chống Pháp.
Nhân dân Phú Yên tuân theo lệnh
của triều đ́nh, tích cực tham gia huy động lực
lượng, củng cố các đồn luỹ, sẵn
sàng chiến đấu. Năm 1861, “sai tả trực kỳ
thêm lính hương dơng chia ban thao diễn, để sung
vào việc phái... ở Phú Yên 1 cơ”(2). Cùng thời
gian trên, ở tập 29, sách Đại Nam thực lục
có ghi, Đề đốc Tôn Thất Đính đem 2000
quân, gồm 1000 lính kinh thành và 1000 lính các tỉnh B́nh Định,
Phú Yên, Khánh Hoà đến Biên Hoà để pḥng thủ
đánh Pháp.
Tháng
2 năm 1862, sau khi các tỉnh Gia Định, Định
Tường, Biên Hoà, Vĩnh Long rơi vào tay thực dân
Pháp. Việc pḥng thủ ở bờ biển Phú Yên
được tăng cường, như lời tâu của
tỉnh thần B́nh Định: “Bốn đồn cửa
biển thuộc đạo Phú Yên (Cù Mông, Xuân Đài, Phú
Sơn, Đà Diễn) giặc thường lén lút nổi
lên, xin cho các xă thôn đoàn kết dân dũng, mỗi đồn
30, 40, 50 người, chuẩn cho miễn tạp dịch
và chiếu cấp cho khí giới, đồ binh để
đi tuần pḥng...” (3) . Như vậy, các cửa
biển Phú Yên là nơi đầu tiên cần được
xây dựng đồn luỹ pḥng thủ, củng cố lực
lượng dân dơng, hương binh từ các làng, xă để
chống thực dân xâm lược vào Phú Yên từ các cửa biển.
Nhân
dân Phú Yên cũng như cả nước đă ủng hộ
cuộc kháng chiến chống Pháp mạnh mẽ ở Nam Kỳ,
bất chấp ngăn cản của triều đ́nh.
Năm
1867 - Viện cơ mật xin thi hành một số biện
pháp ra lệnh cho các tỉnh
Như vậy, ở Phú Yên, từ khi thực
dân Pháp bắt đầu xâm lược nước ta th́
cùng với cả nước huy động lực lượng,
xây dựng căn cứ, củng cố đồn bốt
để chuẩn bị tham gia chống kẻ thù cùng với
triều đ́nh. Đặc biệt, khi có chủ
trương chống Pháp của phe chủ chiến, tầng
lớp văn thân sĩ phu yêu nước ở Phú Yên đă
hưởng ứng tích cực.
2. Cuộc
khởi nghĩa Lê Thành Phương - Mở đầu phong
trào Cần Vương ở Phú Yên (1885-1887)
Cùng
với các tỉnh Trung Kỳ, Phú Yên, khi nghe tin kinh thành Huế
thất thủ và phe chủ chiến kêu gọi Cần
Vương, tinh thần yêu nước đấu tranh chống
Pháp của văn thân, sĩ phu và nhân dân toàn tỉnh đă
được khơi dậy và hưởng ứng mạnh
mẽ.
Người
lănh đạo phong trào Cần Vương ở Phú Yên là Lê
Thành Phương, sinh năm 1825 ở thôn Xuân Vinh, tổng
Tuy An huyện Đồng Xuân, Phú Yên. Lê Thành Phương
đậu tú tài năm 1857, tại trường thi B́nh
Định. Ông là người có tinh thần yêu nước
và gần gũi với các sĩ phu đương thời
trong, ngoài tỉnh và được nhiều người mến
mộ, tin cậy. Hơn nữa, Lê Thành Phương chịu
ảnh hưởng tư tưởng chống Pháp cứu
nước của tướng quân Đào Trí, Trịnh Hữu
Thể và nhiều người trong tổ chức yêu nước
“Nam trung nghĩa sĩ” (ở phía Nam).
Tháng 7 năm 1885, nghe tin về sự kiện thất
thủ kinh thành Huế và vua Hàm Nghi xuất bôn, các sĩ tử
bỏ trường thi và trở về quê kêu gọi nhân dân
kháng chiến chống Pháp. Bài “Vịnh các sĩ tử ở
trường thi B́nh Định” đă thể hiện
tinh thần yêu nước chống Pháp của các nho sĩ
lúc bấy giờ:
“Cửa
trường tiếng dạ miệng c̣n hơi,
Cờ nghĩa treo lên đă ngất
trời.
Đạo trọng vua tôi, ḿnh dám quản,
Oán hờn người Pháp có đâu vơi”(
[82]).
Nhiều
sĩ tử đang ở trường thi đă vội
vàng vứt bỏ nghiên bút và từ bỏ trường thi,
trở về quê hương của ḿnh, tập hợp
nhân dân để chống Pháp. Họ đại diện cho
lực lượng yêu nước trong lúc nước nhà gặp
nguy biến và hưởng ứng lời kêu gọi Cần
Vương đứng lên chống Pháp, khôi phục đất
nước.
Khi có dụ
truyền đến th́ nhân dân khắp nơi hưởng ứng,
từ những người có chức sắc đến ở
thôn quê đều tham gia:
“
Văn thân thấy dụ vui mừng
Mật
tờ truyền thẻ lẫy lừng bốn phương
Quyền
môn chí nhẫn thôn hương…”([83])
Trước t́nh h́nh
đó, Lê Thành Phương (Tú Phương) đại diện
cho văn thân sĩ phu yêu nước lănh đạo nhân dân
và thành lập những đội quân ứng nghĩa Cần
Vương chuẩn bị kháng chiến. Trước tiên,
tại quê hương của ḿnh, ông xây dựng căn cứ
tại Xuân Vinh (núi Chóp Vung) làm trung tâm. Sau đó, ngày
Khi phong trào Cần Vương B́nh Định
bùng nổ th́ Phú Yên phong trào cũng đồng thời diễn
ra, điều này được phản ánh trong tác phẩm
thơ “Dậu Tuất Niên Gian Phong Hoả Kư Sự”:
“ Ngoài B́nh Định
đương ngày giặc giă,
Trong Phú Yên nghe đă dậy rân
Bang Thinh làm đầu đốc
dân,
Tú
Phương, cử Đốc, đội Tần xưng
quan.
Mật tờ cho các xă
làng,
Một lần dậy
rập dư ngàn dư muôn...”(2).
Để
chuẩn bị lực lượng và căn cứ kháng chiến
chống Pháp, Lê Thành Phương kêu gọi và tập trung lực
lượng nghĩa quân, tranh thủ sự ủng hộ của
nhân dân địa phương, Lê Thành Phương thành lập
lực lượng hương binh ở các làng: Mỹ
Đức, Tân An, Mỹ Phú, Phong Phú, Mỹ Thạnh, Mỹ
Xuân, Tuy Dương, Tân Định, Tân Hoà, Hội Đức,
Phước Hậu, Phú Phong...(thuộc các xă An Hiệp và An
Hoà, huyện Tuy An ngày nay) phối hợp với tất cả
sĩ phu yêu nước ở phía Bắc và lực lượng
thứ xá (dân binh ở một số làng trong tỉnh do những
người giàu và sĩ phu yêu nước chiêu mộ khắp
nơi trong tỉnh). Đúng như Nhà sử học Pháp C.
Fourniau đă nhận xét: “Tất cả dân binh trong làng
đều trở thành nghĩa quân chiến đấu
dưới ngọn cờ của vua Hàm Nghi. Làng nào cũng
vậy, họ tập hợp lại, tất cả cùng quyết
tâm v́ mục đích giúp vua chống xâm lược” ([84]).
Về căn cứ ([85]),
toàn tỉnh chia làm hai phân khu: phân khu Bắc từ đèo Tam
Giang đến đèo Cù Mông (giáp tỉnh B́nh Định),
những sĩ phu yêu nước đă hưởng ứng
kịp thời chỉ dụ Cần Vương và tham gia
hoạt động tích cực cùng với Lê Thành
Phương là Nguyễn Hào Sự, Bùi Giảng, Bùi Đáng,
Vơ Thiệp, Đặng Mậu Thưởng...;
Ở phân khu Nam, từ đèo Tam
Giang đến Đèo Cả (giáp tỉnh Khánh Hoà), có Lê Thành
Bính (con trai Lê Thành Phương), Hồ Trọng Đ́a, Nguyễn
Sách, Huỳnh Tấn Pḥng, Nguyễn Hữu Dực, Trần
Đôn ...
Về
vũ khí trang bị cho nghĩa quân Cần Vương ở Phú Yên, rất ít tài liệu đề cập đến
vấn đề này, nhưng qua thực tế t́m hiểu
th́ nghĩa quân Cần Vương Phú Yên cũng như các
nơi trong cả nước lúc bấy giờ lực
lượng nghĩa quân trang bị vũ khí rất thô
sơ, trang phục đơn giản chủ yếu là tự
sắm lấy cho ḿnh. Riêng các đội binh chiến đấu
trực tiếp có cố gắng trang bị cho đồng
phục như binh lính của triều đ́nh. Về vũ
khí, ở Phú Yên lực lượng Cần Vương trang
bị vũ khí tự tạo là chủ yếu như giáo,
mác, cung tên... Các tướng lĩnh rất chú ư xây dựng
các ḷ, xưởng rèn đúc vũ khí ở những căn
cứ đóng quân của nghĩa quân, qua khảo sát chúng ta
thấy một vài nơi c̣n để lại xỉ sắt,
nơi rèn đúc vũ khí như Ḷ Thổi ở An Định,
núi Lư Sơn ở An Hiệp (Tuy An). Ngoài ra, c̣n có một
số vũ khí được đưa từ bên ngoài vào
do những thương nhân Trung Quốc cung cấp, tiêu biểu
là Ngô Kiêm Kư (người Hải Nam, Trung Quốc) ở Vũng
Lắm, huyện Sông Cầu. Ông đă nhập khoảng 200
đại bác, đạn và súng có c̣ mổ từ Trung Quốc
sang. Đội quân của các tộc người thiểu
số ở miền núi với vũ khí truyền thống
của họ là cung tên, ná, giáo mác và cạm bẫy...
Từ
giữa tháng 8 năm 1885, lực lượng Cần Vương
ở Phú Yên bắt đầu hoạt động mạnh,
hầu như tất cả dân chúng và quan lại của
triều đ́nh Nguyễn ở Phú Yên đều tham gia nghĩa
binh. Trước sự tham gia đông đảo và ủng
hộ mạnh mẽ của nhân dân toàn tỉnh, chính quyền
đương cục lúc này chỉ c̣n đóng giữ ở
trung tâm tỉnh thành An Thổ (Tuy An) và trung tâm huyện Tuy
Hoà.
Tháng
9 năm 1885, Lê Thành Phương đă tổ chức và lănh
đạo các lực lượng nghĩa quân Cần Vương
đánh chiếm tỉnh Thành. Nhiệm vụ của cuộc
khởi nghĩa do người lănh đạo đặt ra
là chống giai cấp phong kiến đầu hàng sau nhiệm
vụ chống ngoại xâm với khẩu hiệu: ”Tiểu
tặc, trừ gian, b́nh quốc loạn”.
Lực
lượng nghĩa quân Cần Vương Phú Yên đă
được chuẩn bị ở các huyện, Lê Thành
Phương đă giao nhiệm vụ cho Bùi Giảng và Lê
Thành Bính chỉ huy hai đạo quân hơn 1.500 quân vây
đánh tỉnh Thành An Thổ và phối hợp với lực
lượng nghĩa quân Cần Vương từ B́nh Định([86])
do Cử nhân Nguyễn Trọng Tŕ (nguyên là quan Tư vụ
trong nội các triều đ́nh
Huế) vào Phú Yên.
Trong
Đại Nam thực lục có ghi sự kiện này,
“Thân hào tỉnh Phú Yên chiếm giữ tỉnh thành, bố
chính là Phạm Như Xương bị bức giam, bọn
án sát Hoàng Cân, lănh binh Nguyễn Văn Hanh đều đi
tránh”([87]).
Cùng với việc đánh chiếm tỉnh thành, lực lượng
Cần Vương ở Phú Yên tiếp tục đánh dẹp
lực lượng tay sai ở các huyện. Huyện Tuy
Hoà, lúc đầu do tri huyện Đinh Duy Tân và Bang tá Lê
Đ́nh Mại cố thủ ở trung tâm, sau đó,
Đinh Duy Tân được thăng án sát để tuỳ
cơ hiểu thị ngăn dẹp, Lê Đ́nh Mại được
thăng tri huyện. Một tháng sau, Đinh Duy Tân phải
trốn vào Khánh Hoà, Lê Đ́nh Mại bị lực lượng
Cần Vương tiêu diệt. Như vậy, chỉ trong
một thời gian ngắn lực lượng Cần
Vương Phú Yên đă làm chủ hoàn toàn trên phạm vi cả
tỉnh.
Trước
khí thế mạnh mẽ của lực lượng Cần
Vương các tỉnh Trung và Nam Trung Kỳ, triều
đ́nh Đồng Khánh đă cộng tác chặt chẽ với
thực dân Pháp và thừa nhận sự bảo hộ của
Pháp trên đất nước ta, từ Quảng Nam đến
B́nh Thuận, Quảng Trị đến Thanh Hoá (tuỳ
theo tỉnh lớn hay nhỏ).. lính Pháp chia đóng trấn
giữ cho yên dân cư. Như vậy, triều đ́nh
Đồng Khánh đă thừa nhận sự có mặt của
quân đội Pháp ở khu vực Trung Kỳ, đă làm cho
nhân dân Trung Kỳ nói chung và nhân dân Phú Yên nói riêng vô cùng
căm phẫn. Sự hèn nhác, đầu hàng giặc của
triều đ́nh Đồng Khánh đă làm cho tinh thần
đấu tranh chống Pháp và triều đ́nh tay sai của
nhân dân cả nước ngày một dâng cao, trong đó có Phú
Yên.
Lúc này, quân Pháp chưa đáp ứng
yêu cầu của triều đ́nh Đồng Khánh là
đưa quân ra can thiệp ở Phú Yên. Đây chính là
điều kiện thuận lợi để nghĩa quân
Cần Vương Phú Yên phát triển lực lượng
và xây dựng căn cứ chống Pháp lâu dài trên phạm vi
cả tỉnh, đồng thời liên kết chiến
đấu với các tỉnh lân cận nhằm mở rộng
địa bàn hoạt động ([88]).
Lê
Thành Phương kêu gọi toàn dân tham gia chống Pháp cùng với
việc một mở rộng căn cứ từ đồng
bằng Tuy Hoà, Tuy An, Sông Cầu đến vùng núi Tây Bắc
và Tây Nam của tỉnh, từ núi La Hiên đến Thồ
Lồ, từ Phú Giang, Kỳ Lộ đến vùng Sơn
Hoà ngày nay đều trở thành pháo đài kháng chiến của
nghĩa quân Cần Vương Phú Yên.
Sau
khi đánh chiếm tỉnh thành An Thổ và làm chủ trên
phạm vi toàn tỉnh, nghĩa quân Cần Vương Phú
Yên do Lê Thành Phương lănh đạo đă chủ trương
đưa quân ra B́nh Định và vào các tỉnh phía Nam
để cùng lực lượng văn thân địa phương
ở Khánh Hoà (do Lê Nghị, Trần Đường, Trịnh
Phong… lănh đạo); B́nh Thuận (do Bùi Đản, Ung
Chiêm, Nguyễn Xương… lănh đạo) tiêu diệt thực
dân Pháp và chính quyền tay sai.
Trong
cuốn sách “Le An nam du 5 Juillet 1885 au 4 av -ril 1886”, X*** (tức
Prud’homme- TG) đă viết: “Căn
cứ vào những điều mắt thấy, tai nghe, tôi
cho rằng miền Nam Trung Kỳ t́nh h́nh đang diễn ra
vô cùng phức tạp. Cần phải đánh một đ̣n
mạnh để đưa miền đó vào trật tự.
Nếu không tổ chức được ở đây, tôi
tin rằng không nói riêng ǵ ở Phú Yên là nơi dân phiến
loạn đă làm chủ, mà ngay cả Khánh Hoà và B́nh Thuận
cũng hoàn toàn tin theo phe đảng Hàm Nghi. Lúc bấy giờ
tất cả đều phải bắt đầu lại
và chắc chắn khó khăn sẽ lớn hơn bây giờ
nhiều”([89]).
Từ
cuối tháng 8-1885 đến tháng 6-1886, hoạt động
của lực lượng Cần Vương các tỉnh
B́nh, Phú, Khánh, Thuận ngày một liên kết chặt chẽ
và giành nhiều thắng lợi.
Bất
chấp sự dụ dỗ và đe doạ của triều
đ́nh Đồng Khánh, nghĩa quân Cần Vương Phú
Yên và các tỉnh Nam Trung Kỳ đă hợp sức nhau chiến
đấu ngày một mạnh mẽ. Nhà sử học Pháp - C.Fourniau viết “Như vậy
phong trào hùng mạnh ở Phú Yên, B́nh Định đă phát
huy ảnh hưởng của nó ra khỏi giới hạn
phía Nam của những tỉnh này và là nguồn gốc của
những phong trào chống Pháp ở Khánh Hoà và B́nh Thuận”([90]).
Trước
t́nh h́nh đó, thực dân Pháp gặp không ít khó khăn, v́
chính tướng Đuma chịu trách nhiệm về sự
trấn yên ở tỉnh Phú Yên, nhưng ông không thể thành
công…, nên thực dân Pháp t́m mọi cách tiêu diệt phong trào Cần
Vương Phú Yên. Triều
đ́nh Huế và thực dân Pháp muốn ngăn chặn sự
phát triển phong trào Cần Vương các tỉnh Nam Trung
Kỳ và ở Phú Yên, nên chúng đề nghị quân Pháp và
tay sai ở Nam Kỳ ra can thiệp (lúc này, Bộ chỉ
huy sư đoàn chiếm đóng Bắc Kỳ không c̣n có khả
năng phái những lực lượng tới phía nam Huế).
Đến
tháng 9-1886, thực dân Pháp và tay sai Nam Kỳ đă đánh chiếm
B́nh Thuận và Khánh Hoà. Ngày
Ngày
6 tháng 2 năm 1887, cuộc đụng độ giữa lực
lượng Cần Vương Phú Yên với quân Pháp và tay
sai Trần Bá Lộc diễn ra tại các đồn dọc
cửa biển (Tân Thạnh, Hảo Nghĩa), nhưng v́
địch được trang bị vũ khí hiện
đại nên nghĩa quân bị tổn thất nặng.
Để chống lại quân địch, nghĩa quân thực
hiện chủ trương “vườn không nhà trống”
ở một số làng gần cửa biển, cho chuyển
dân cư và lương thực vào bên trong chờ cơ hội
đánh trả. Cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt
nhưng v́ nghĩa quân trang bị vũ khí thô sơ nên không
địch nổi pháo binh hạng nặng (sơn pháo 80 ly)
của địch. Mặc dù quân Pháp và tay sai đă đánh
chiếm một số căn
cứ nhưng chúng luôn vấp phải
những cuộc phục kích của nghĩa quân.
Thực
dân Pháp và tay sai Trần Bá Lộc đánh chiếm được
phân khu Bắc, c̣n phân khu Nam với căn cứ Xuân Vinh
nơi đóng quân của thủ lĩnh Lê Thành Phương,
con trai Lê Thành Bính đă xây dựng đồn Lâm Cấm và
huy động lực lượng nghĩa quân chuẩn bị
chống Pháp và tay sai đánh vào phía nam... Lực lượng
quân địch do Trần Bá Lộc đứng đầu,
chúng đă dùng nhiều chính sách xảo quyệt, mua chuộc
và dụ dỗ một số tướng lĩnh nên kế
hoạch đánh trả của nghĩa quân không thực hiện
được, một số căn cứ kháng chiến
đă bị chúng đánh chiếm. Trước t́nh h́nh khó
khăn, Lê Thành Phương tập kết nghĩa quân ở
g̣ Trú, núi Chùa Hang, chợ Phiên Thứ, đồn Lâm Cấm
rút lên Vân Hoà (huyện Sơn Hoà) để dựa vào đồng
bào miền núi kháng chiến.
Giữa
tháng 2 năm 1887, thực dân Pháp và tay sai Trần Bá Lộc
đă căn bản thực hiện ư định đánh
chiếm Phú Yên, nhiều làng bị chúng đốt phá, dân
chúng bị đàn áp dă man. Ngày 14 tháng 2 năm 1887, Lê Thành
Phương xuống Tuy Hoà để chuẩn bị thực
hiện kế hoạch phản công chiếm lại vùng
đồng bằng. Trần Bá Lộc đă dùng mưu kế
mua chuộc Đặng Trạch - tên tay sai làm chánh tổng
Hoà B́nh (từng tham gia phong trào Cần Vương) dụ bắt
thủ lĩnh Lê Thành Phương và đem nộp cho chúng.
Nhiều lần mua chuộc và dụ dỗ không thành, ngày 20
tháng 2 năm 1887, Lê Thành Phương bị chúng giết tại
bến đ̣ Cây Dừa thôn B́nh Hoà - phủ Tuy An (làng Ngân
Sơn, xă An Thạch, huyện Tuy An ngày nay).
Sau
khi cuộc khởi nghĩa của Lê Thành Phương lănh
đạo thất bại, phong trào yêu nước chống
Pháp ở Phú Yên lâm vào t́nh trạng vô cùng khó khăn. Trước
sự đàn áp dă man của Pháp và lực lượng tay
sai Trần Bá Lộc làm cho lực lượng yêu nước
Phú Yên cần phải có nhiều thời gian mới phục
hồi được. Mặt khác, thực dân Pháp tăng cường
bộ máy tay sai nhằm thống trị và đàn áp các cuộc
nổi dậy của lực lượng yêu nước và
đồng thời tiến hành khai thác bóc lột nhân dân tỉnh
Phú Yên.
Nhân
dân Phú Yên nói chung và các dân tộc thiểu số miền núi
thuộc hai huyện Đồng Xuân và Sơn Hoà nói riêng (nơi
Pháp chưa thể chiếm được), vẫn đấu
tranh kiên cường chống lại thực dân và tay sai. Họ
đấu tranh liên tục bằng nhiều h́nh thức, xuất
phát từ t́nh yêu quê hương, từ ư thức bảo vệ
buôn làng, phong tục, tập quán, cuộc sống tự do,
độc lập vốn có của họ.
3. Cuộc
vận động chống Pháp của Nguyễn Hào Sự
(1890-1892)
Từ giữa năm 1887, phong trào
Cần Vương ở Nam Trung Kỳ cũng như ở
Phú Yên gặp khó khăn. Sau 3 năm gián đoạn, năm
1890 phong trào Cần Vương chống Pháp ở Phú Yên
được bí mật tổ chức trở lại do
Nguyễn Hào Sự vận động và chỉ huy.
Nguyễn
Hào Sự (tức Bá Sự) sinh ra và lớn lên trong gia
đ́nh nhà nông khá giả ở làng Phú Xuân, xă Xuân Phước,
huyện Đồng Xuân. Ông đă từng tham gia và chỉ
huy lực lượng Cần Vương ở phía Bắc
tỉnh trong cuộc khởi nghĩa do Lê Thành Phương
lănh đạo. Khi cuộc khởi nghĩa thất bại,
Nguyễn Hào Sự cùng một số nghĩa quân rút lên vùng
núi thuộc huyện Đồng Xuân chờ cơ hội vận
động người Kinh tham gia khôi phục phong trào chống
Pháp và hướng hoạt động đấu tranh của
các dân tộc thiểu số miền núi vào quĩ đạo
phong trào Cần Vương.
Theo
tài liệu của Pháp viết “Ông có một ảnh hưởng
quan trọng đối với phần lớn dân chúng. Ông
không ngừng kích động đồng bào của ông nổi
dậy, t́m cách tập hợp họ lại thành những
đơn vị quân sự, bao cấp cho họ thành ngạch
bậc, vũ khí...”([92]).
Bên cạnh Bá Sự, có những người yêu nước
thuộc gia đ́nh khá giả ở huyện Đồng
Xuân đă đóng góp lương thực, tiền của
để mua sắm vũ khí và huy động lực
lượng tham gia chống Pháp.
Trong
bài viết của Charles Fourniaux có ghi “mặc dù có những
việc quy hàng và những vụ hành quyết, nhưng ở
B́nh Định- Phú Yên vẫn c̣n có vài người tài giỏi,
có uy tín, để duy tŕ cuộc kháng chiến (một cái
đồn luỹ nhỏ đă được xây đắp
kiên cố ở miền thượng du) và họ đă duy
tŕ được một ảnh hưởng quan trọng
đối với phần lớn dân chúng”(2).
Căn
cứ của nghĩa quân được xây dựng chủ
yếu ở huyện Đồng Xuân, như vùng Tổng
Binh (xă Bầu Bèn, Phước Tân), vùng Phú Hội ở suối
Trầu (xă Xuân Phước), đặc biệt vùng núi Thạch
Long Cương (Ḥn Ông), buôn Cây Trôi, suối Rẽ, suối
Cối gần sông Kỳ Lộ (xă Xuân Quang ngày nay) tiếp
nối với dăy núi La Hiên hiểm trở làm căn cứ
trung tâm của nghĩa quân... Ngoài ra, ông c̣n xây dựng khu vực
Sân Sĩ vùng Ṃ O (Phú Mỡ) để làm nơi rèn đúc vũ
khí và tập luyện nghĩa binh.
Mục đích chính của Bá Sự là gây dựng
cơ sở, mở rộng căn cứ để chuẩn
bị cuộc kháng chiến chống Pháp, sau đó cử
người qua nước Xiêm liên lạc cầu viện([93]).
Thực dân Pháp và tay sai thực hiện những cuộc tấn
công căn cứ nghĩa quân ở núi Ḥn Ông không có kết
quả, nên chúng đă dùng các thủ đoạn như bắt
người thân, đốt phá xóm làng, tra tấn dă man dân
chúng (mà chúng nghi có liên quan đến nghĩa quân Cần
Vương).
Nghĩa quân lúc này hoạt động khó
khăn, nhưng tinh thần yêu nước và đấu
tranh chống Pháp mạnh mẽ của nhân dân Phú Yên dưới
chỉ huy của Bá Sự vẫn phát huy. “Đầu
năm 1892, Ba Su (tức Nguyễn Hào Sự hay c̣n gọi
là Bá Sự - T.G) bị bắt”([94]).
Phong trào Cần Vương ở Phú Yên cơ bản chấm
dứt.
Dù thất bại, các cuộc đấu tranh của
nghĩa quân Cần Vương ở Phú Yên luôn thể hiện
tinh thần yêu nước, kiên cường đấu
tranh và mang đậm tính nhân dân sâu sắc.
Sau
phong trào cần Vương, thực dân Pháp tăng cường
đàn áp và bóc lột, đời sống nhân dân vô cùng khổ
cực. Phong trào yêu nước đấu tranh chống Pháp
theo ngọn cờ Cần Vương cả nước
đă kết thúc (1896), nhưng tinh thần dân tộc vẫn
tồn tại và phát triển dưới nhiều h́nh thức
khác nhau. Những năm cuối cùng của thế kỷ
XIX, phong trào đấu tranh lại xuất hiện một
khuynh hướng mới- khuynh hướng mang màu sắc
tôn giáo. Trong những năm này, tại Bắc Kỳ có phong
trào Kỳ Đồng, Mạc Đĩnh Phúc (1895-1897), Bắc
Trung Kỳ có phong trào Vương Quốc Chính (1895-1898), ở
Nam Kỳ có “Hội Kín” (1911-1916)… Trong bối cảnh
đó, ở Nam Trung Kỳ có phong trào yêu nước chống
Pháp của nhân dân Phú Yên do Vơ Trứ, Trần Cao Vân tổ chức
(1898-1900).
4. Cuộc khởi nghĩa Vơ Trứ,
Trần Cao Vân ở Phú Yên
(1898-1900)
Vơ Trứ xuất
thân từ một gia đ́nh nông dân, ở làng Nhơn Ân, tổng
Kỳ Sơn, phủ Tuy Phước, tỉnh B́nh Định.
Ông là người từng tham gia phong trào Cần
Vương và đồng thời là môn đệ của thầy
chùa Đá Bạc (B́nh Định). Ông ở chùa, làm nghề
thầy thuốc và phù thủy. Mục đích chính của
Vơ Trứ là t́m mọi cách để vận động, tập
hợp quần chúng, xây dựng lại phong trào chống
Pháp.
Xuất phát từ
ḷng yêu nước nhưng chưa có một phương thức
tập hợp nhân dân, ông đă dựa vào sự mê tín của
họ để thực hiện ư định chống Pháp
và tay sai, giành lấy độc lập cho quê hương… Hầu
hết các chùa ở hai tỉnh B́nh Định và Phú Yên trở
thành nơi tập hợp nghĩa quân của Vơ Trứ.
Trần Cao Vân
(1866-1916) người làng Tư Phú, tổng Ḥa Đa, phủ
Điện Bàn, tỉnh Quang
Năm 1895, tại chùa Đá Bạc,
Vơ Trứ đă gặp Trần Cao Vân cùng bàn việc tổ
chức khởi nghĩa. Sau đó, Vơ Trứ vào huyện
Sơn Hoà, Đồng Xuân, Phú Yên để hoạt động.
Vơ Trứ và Trần Cao Vân
được nhân dân Phú Yên ủng hộ. Hai ông với
danh nghĩa là các nhà sư, dựa vào chùa để tuyên truyền
tư tưởng yêu nước, lập căn cứ, tổ
chức lực lượng chống
Pháp. Hai ông đă chọn các địa điểm Đá Mài, La Hiên, Thồ Lồ và
chùa Quang Tự (chùa Đá Trắng) làm căn cứ và cơ
sở của phong trào([96]).
Thực dân Pháp truy lùng ráo riết đối với những
làng trước kia có liên quan đến phong trào Cần
Vương nên việc xây dựng căn cứ của nghĩa
quân Vơ Trứ gặp nhiều khó khăn. Mặc dù vậy,
thực dân Pháp không thể đánh chiếm được
khu vực này v́ đây là vùng núi cao hiểm trở, đi lại
khó khăn.
Sau
một thời gian chuẩn bị, ở vùng Tây Bắc của
tỉnh, địa bàn sinh sống của người
Chăm, Bana, Êđê đă trở thành căn cứ chính của
nghĩa quân Vơ Trứ.
Trong báo cáo của công sứ
Phú Yên BlainVille gửi khâm sứ Trung Kỳ, ngày 29-7-1900, có
đoạn viết: “Vơ Trứ đến Phú Yên trong ṿng
hai năm, lúc đầu dựa vào người “mọi” ở
Thồ Lồ, làng Xí, làng Đồng, Phú Giang, làm căn cứ
ở La Hiên, Cây Vừng, sau mở rộng ra đến
người An Nam”([97]).
Quá tŕnh hoạt động của Vơ Trứ có ảnh
hưởng tích cực đến dân chúng kể cả quan
lại Nam triều, như BlainVille kết luận “từ
tri phủ, tri huyện đến chánh phó tổng và
hương lư đều có liên quan đến cuộc nổi
loạn của Vơ Trứ, nếu không tích cực ủng hộ
th́ ít ra cũng giúp đỡ chúng bằng tinh thần, hoặc
đứng giữa dung túng phản nghịch. Trừ tri phủ
Tuy An và cựu chánh tổng Xuân Sơn thượng…”
Vũ khí trang bị cho
nghĩa quân khởi nghĩa là tự chế như lao làm bằng
cây Giang, dây thừng, lăng khiêng, gậy (tầm vông), cung
nỏ và chủ yếu là “rựa” cất giấu ở các
chùa và trong rừng, v́ thế thực dân Pháp c̣n gọi nghĩa
quân là “Giặc Rựa”. Không những vậy, nghĩa
quân c̣n mang trong ḿnh một “đạo bùa hộ mệnh”
v́ họ tin phù phép cao cường của Vơ Trứ (súng bắn
không thủng, gươm
chém không đứt).
Lực lượng tham gia phần
đông là nông dân bao gồm người Kinh và đồng
bào các dân tộc ít người thuộc vùng núi huyện
Sơn Hoà, huyện Đồng Xuân, Phú Yên và hai xă Canh
Sơn, Canh Lănh thuộc huyện Vân Canh, tỉnh B́nh Định.
Cùng với hoạt động thu hút đồng
bào các dân tộc thiểu số, Vơ Trứ và Trần Cao Vân
c̣n vận động các nhà sư, thân hào, nhân dân vào dịp
đi lễ chùa và tổ chức họ tham gia lực
lượng nghĩa quân chống thực dân Pháp, trong đó
chủ yếu là tín đồ Phật giáo.
Năm Mậu Tuất
(1898), nhân dân Phú Yên ở trong t́nh trạng mất mùa, nạn
đói xảy ra, sưu thuế lại đến kỳ phải
nộp, “những người không đóng góp được
đều bị bọn cường hào thi hành bắt cả
trâu ḅ, khuân cả từ khí, cho đến mâm thau, nồi
đồng... những dân nghèo không có gia sản th́ bị
đóng gông giải về huyện”([98]).
Người dân Phú Yên lúc này khổ cực v́ nạn đói
đe doạ, sưu thuế nặng nề, quan lại
cường hào ra sức ức hiếp dân nghèo. Ḷng căm
thù của nhân dân Phú Yên đối với chính phủ bảo
hộ hơn bao giờ hết, họ hưởng ứng
mạnh mẽ chủ trương cứu nước, chống
Pháp của Vơ Trứ. Trước t́nh h́nh đó, hai ông quyết
định tập hợp nhân dân khởi nghĩa.
Về phía thực dân
Pháp, sau khi đàn áp phong trào Cần Vương ở Phú Yên,
Pháp lập ṭa sứ ở Sông Cầu (tức ṭa Công sứ
Pháp-TG), tổ chức bộ máy cai trị do Nam triều trực
tiếp điều khiển. Hoạt động của Vơ
Trứ luôn bị theo dơi. Tri huyện Đồng Xuân là
Lưu Tuấn lúc bấy giờ đă phát hiện
được kế hoạch khởi nghĩa của nghĩa
quân và báo với Chính quyền Pháp.
Về phía nghĩa quân,
sau thời gian tích cực chuẩn bị, Vơ Trứ lănh
đạo dân binh từ vùng núi La Hiên ở Làng Đồng,
Làng Len (Phú Mỡ), qua Xuân Lănh - Đồng Xuân xuống Sông
Cầu. Lực lượng nghĩa quân tham gia có khoảng
600 người([99]).
Khoảng 11 giờ đêm (mùa hè năm 1898), lực lượng
nghĩa quân của Vơ Trứ đến Dốc Quưt cách Sông
Cầu (tỉnh lỵ) 5 km th́ gặp quân địch. Cuộc
chiến đấu diễn ra ác liệt.
Lực lượng nghĩa quân
chiến đấu dũng cảm, nhưng v́ bị bất
ngờ, trong khi đó tổ chức c̣n thiếu chặt chẽ,
vũ khí c̣n quá thô sơ (cung, nỏ, giáo, rựa) lại phải
đối phó với địch được trang bị
vũ khí hiện đại nên cuộc khởi nghĩa
đă bị thất bại.
Sau khi quân Vơ Trứ bị tổn
thất và rút về vùng núi La Hiên, thực dân và tay sai
tăng cường lực lượng quân pḥng “phái từ
Quảng B́nh, Quảng Trị, Thừa Thiên” ([100]).
Chúng tập trung quân bắn giết, đốt phá nhà cửa
dân chúng ở gần căn cứ nghĩa quân. Các làng quanh
vùng sông Kỳ Lộ bị chúng đốt sạch([101]).
Trước hoàn cảnh đó, ngày 31 tháng 5 năm 1900, Vơ Trứ
quyết định nộp ḿnh để cứu lấy
nhân dân. Trần Cao Vân bị thực dân Pháp bắt giam.
Cuộc khởi nghĩa chỉ tồn
tại trong một thời gian ngắn nhưng ảnh
hưởng của nó mạnh mẽ đến nhân dân, kích
thích ḷng yêu quê hương, đất nước, tinh thần
đấu tranh giải phóng dân tộc, thoát khỏi sự
đô hộ.
Cuộc khởi
nghĩa thất bại, Vơ Trứ và hai phụ tá của ông
đều bị xử chém vào ngày 6 - 6 -1900 tại Sông Cầu.
Những làng là căn cứ của Vơ Trứ phải nộp
thuế chiến phí 20.000 quan tiền.
Cuộc đấu tranh yêu nước
của nhân dân ta trong những năm cuối cùng thế kỷ
XIX, trong đó cuộc khởi nghĩa của Vơ Trứ, Trần
Cao Vân ở Phú Yên đă chứng tỏ rằng trong những
điều kiện khó khăn, “mặc dù bọn
vua chúa ươn hèn, mặc dù địch đang chiếm
ưu thế và mặc dù chế độ quân chủ
đă làm cho dân chúng quen lạnh nhạt bàng quang, dân chúng cũng
không thể chịu nổi ách ngoại bang mà không bền bỉ
chống lại”([102]).
Tiếp nối truyền
thống yêu nước của cha ông, nhân dân Phú Yên đă
đấu tranh kiên cường, bất khuất. Chính thực
dân Pháp đă phải thừa nhận “dân Phú Yên tuy ít học,
nhưng họ giữ được ư thức độc
lập, tự do”([103]).
Phong trào yêu nước chống Pháp cuối thế kỷ
XIX cả nước trong đó có Phú Yên đă đóng một
vai tṛ là “sợi dây nối liền giữa cuộc kháng
chiến “lỗi thời” với những cố gắng có
kết quả hơn vào đầu thế kỷ XX” ([104]).
Sau khi đàn áp cuộc
đấu tranh yêu nước của nhân dân Phú Yên, thực
dân Pháp tăng cường chính sách khai thác và bóc lột.
Đời sống nhân dân Phú Yên vô cùng khổ cực, tuy
nhiên tinh thần yêu nước và đấu tranh cách mạng
tiếp tục bùng nổ trong những năm đầu thế
kỷ XX.
Thực dân
Pháp và Chính phủ bảo hộ
5. Phong trào chống
thuế năm 1908 ở Phú Yên
Từ cuối
tháng 2-1908 trở đi, khái niệm “không nộp thuế
cho Pháp” được tuyên truyền rộng răi trong quần
chúng nhân dân. Khởi đầu từ Quảng Nam đến
các tỉnh phía nam Trung Kỳ, thực dân Pháp và tay sai
tăng cường đàn áp nhưng phong trào vẫn dâng lên
không ngừng. Phú Yên hưởng ứng phong trào kháng
sưu, xin xâu mạnh mẽ. Cụ thể, cuộc vận
động dân chúng mặc áo cộc, cắt tóc ngắn, tổ
chức biểu t́nh, xin giảm thuế đinh, thuế
điền, bỏ thuế muối, thuế chợ diễn
ra.
Người
đi đầu ở Phú Yên trong phong trào này là ông Nguyễn Hữu Dực. Ông
sinh năm 1857, làng Phú Hiệp (nay là thôn Phú Ḥa, xă Ḥa Hiệp
Trung, huyện Đông Ḥa), từng tham gia phong trào Cần
Vương. Khi phong trào Cần Vương thất bại,
ông tiếp tục liên lạc với các nhân sĩ B́nh Định
và tiếp thu phong trào cắt tóc, xin xâu năm 1908 của
Phan Châu Trinh, Trần Quư Cáp, Huỳnh Thúc Kháng ở Quảng
Nam, Quảng Ngăi và B́nh Định. Nguyễn Hữu Dực
đă vận động nhân dân khắp các phủ, huyện
trong tỉnh tham gia cuộc biểu t́nh chống thuế.
Tác giả
Sơn Ngôn với những tài liệu tuyên truyền, nêu lên
thực trạng sưu cao thuế nặng đang đẩy
nhân dân ta vào cảnh khốn cùng và kêu gọi mọi người:
“
Rủ nhau tới trước nha môn,
Lạy
ông Bảo hộ xin trừ thuế sưu.
Ví
dầu ngày chậm tháng lâu,
Xin
cho bền chí chớ sầu nỗi chi.
… Dầu ông Bảo
hộ không yêu,
Ra oai đánh đập
cũng liều tấm thân.
Thuế đinh, thuế ruộng
giảm phân.
Thuế diêm, thuế chợ
th́ dân xin từ…” ([105])
Đầu
năm 1908, phong trào cắt tóc, chống sưu cao, thuế nặng
ở Phú Yên bùng lên, lực lượng tham gia phong trào chủ
yếu là nông dân. Khắp nơi trong tỉnh, có nhiều
người đứng ra vận động phong trào
như ở Tuy Hoà có Lê Hanh, Trịnh Hoàng ở thôn Tân Mỹ
(nay là thôn Tân Mỹ, xă Ḥa Phú, huyện Tây Ḥa), Trần
Đôn ở làng Qui Hậu (nay là thôn Qui Hậu, xă Ḥa Trị,
huyện Phú Ḥa), Nguyễn Tấn Thảo, Đỗ Châu ở
làng Thạch Chẩm (nay là thôn Thạch Chẩm, xă Ḥa Xuân
Tây, huyện Đông Ḥa)… vận động phối hợp
với nông dân huyện Tuy An do ông Huỳnh Tấn Pḥng, Nguyễn
Trọng Thuật…; ở Đồng Xuân có Huỳnh Thượng
Trung… đă tổ chức đấu tranh.
Ngày 11-5-1908, cuộc biểu t́nh chống thuế
ở Phú Yên diễn ra, có 200 người tham gia phong trào chuẩn
bị đánh chiếm phủ lỵ Tuy An, do kích động,
một số người xông vào cướp súng của
Giám binh Pháp Fourré nên phong trào bị đẩy lùi. Tiếp
đó, dân chúng ở các tổng thuộc phủ Tuy Hoà tập
trung với lực lượng 2000 người biểu
t́nh xuống phủ Tuy Hoà (lúc đó đóng tại thôn
Đông Phước, xă Hoà Thắng, huyện Phú Hoà ngày nay)
và đi ra tỉnh lỵ Sông Cầu. Ngày
Phú Yên trong những ngày
đầu tháng 5-1908, ngoài việc chống thuế, xin xâu
phát triển mạnh mẽ, phong trào cắt tóc ngắn
đồng thời diễn ra. Theo án sát tỉnh Phú Yên lúc bấy
giờ viết trong hồi kư “Lô Giang tiểu sử” về
phong trào chống thuế ở Phú Yên, “Năm 1908, những
ngày tháng Giêng ở kinh nổi lên việc khuất thuế,
tiếp đến loạn cắt tóc lan đến các tỉnh
Nam, Ngăi, B́nh, Phú.. Dân chúng dựa vào thân sĩ mượn thế
dân chúng mà chính biến. Ở Phú Yên, nhân dân có cả phụ
nữ kéo lên đường quan, cắt tóc thành đống
lấy lửa đốt, mùi khét đầy trời: trong
3, 4 tháng ở 4, 5 tỉnh không ai ngủ yên”([107]).
Cuộc biểu t́nh
đă thu hút đông đảo nhân dân Phú Yên tham gia và biểu
hiện những nét mới của phong trào. Điều này
được nêu trong báo cáo ngày
Phong trào
đấu tranh của nhân dân Phú Yên đă diễn ra sôi nổi
mạnh mẽ, kiên quyết, có mục tiêu kinh tế, chính
trị nhưng vẫn chưa có sự lănh đạo chung,
c̣n mang tính tự phát của những người nông dân
nghèo khổ, được một số sĩ phu yêu
nước tiến bộ hưởng ứng ủng hộ
và đứng đầu các đoàn biểu t́nh. Chính v́
điều đó, phong trào bùng lên mạnh mẽ rồi kết
thúc nhanh. Đây là nét chung của phong trào chống thuế cả
Trung Kỳ năm 1908.
Tuy nhiên,
phong trào chống thuế năm 1908 ở Phú Yên cũng
như Trung Kỳ đă làm cho thực dân Pháp phải nới
tay trong chính sách bóc lột của chúng, như giảm thuế
thân từ 2,40đ xuống 2,20đ, giảm 4 ngày sưu
(công ích) xuống 3 ngày và tuyên bố không tăng 5% thuế
điền nữa. Một vài nhà thương (bệnh viện),
trường học được mở… Ngày 31-12-1908, Toàn
quyền Đông Dương chuẩn y, giảm số ngày
đi xâu làm việc “hàng tỉnh” từ 8 ngày (theo nghị
định Toàn quyền ngày 31-12-1907) xuống c̣n 5 ngày([109]).
Tiếp nối và phát triển phong
trào đấu tranh chống Pháp và tay sai ở giai đoạn
cuối thế kỷ XIX, phong trào chống sưu thuế
đầu thế kỷ XX, biểu thị ḷng yêu nước,
chí căm thù, sức mạnh quật khởi, khả
năng cách mạng to lớn và nguyện vọng sâu sắc
của quần chúng nhân dân mà chủ yếu là nông dân chống
thực dân phong kiến. Phong trào tuy thất bại nhưng
đă để lại bài học kinh nghiệm cho cuộc
đấu tranh giai đoạn tiếp theo giành thắng lợi.
6. Các
cuộc đấu tranh chống Pháp ở miền núi Phú Yên
đầu thế kỷ XX
Nhân
dân ở miền núi tỉnh Phú Yên tuy không tổ chức lực
lượng hùng mạnh thành những đội quân “sơn
hùng”, “sơn dũng” nhưng họ là những lực
lượng đă có truyền thống đấu tranh bảo
vệ buôn làng và đă từng tham gia lực lượng
quân Tây Sơn cuối thế Kỷ XVIII. Họ là đối
tượng“bất tuân vương hoá” của triều
đ́nh, nhiều lần nổi dậy chống lại ách
áp bức, bóc lột ở nguồn Thạch Thành. Triều
đ́nh phải thay đổi các quan trấn thủ hoặc
cử quan quân đi đàn áp, đồng thời t́m cách dụ
dỗ, mua chuộc hoặc kêu gọi “khéo xử với
dân Man”.
Khi thực dân Pháp chiếm Phú Yên và đặt ách cai trị,
ngày 12-2-1900 chúng lập đại lư Củng Sơn để
cai trị cả miền cao nguyên từ B́nh Định
đến biên giới Khánh Ḥa, Đăk Lăk. Các dân tộc
thiểu số vốn quen cuộc sống tự do, phóng
khoáng nên khi bị thực dân Pháp bắt ép lao động phục
dịch (làm đường) và chúng thiết lập các
đồn kiểm soát, thu thuế, nên họ đă “bất
hợp tác” với giặc.
Cụ thể,
thực dân Pháp đă dùng nhiều thủ đoạn bao vây
kinh tế, chặng đường tiếp tế muối
và dụng cụ từ miền xuôi lên. Để giải
quyết khó khăn đó, A ma Jơhao (người dân
Êđê yêu nước tên là Y Yên ở Đắc Lắc)
đă cho thu nhặt lâm thổ sản mật ông, sáp ong, gạc
nai, xương hổ, ngà voi, gỗ trầm…đưa tới
vùng núi thuộc Củng Sơn huyện Sơn Hoà, Phú Yên
để đổi lấy muối và đồ sắt.
Người dân ở đây đă hưởng ứng tích cực
trao đổi với giá rẻ, phối hợp buôn bán với
người Kinh nên phá vỡ được lưới bao
vây của địch và bảo đảm việc tiếp
tế cho các hoạt động đấu tranh liên tục
trong 4 năm (1901-1905) không hề bị gián đoạn.
Tháng
8-1907 người Thượng vùng Plei bong ở Phú Yên
đă chặn đánh cuộc hành quân Pháp tại Bun-Houine
(nay thuộc huyện AJunpa-Gia Lai). Mặc dù người quản
Thượng là ông Madenil bị bắt, người dân vùng
MaLai vẫn tiếp tục đấu tranh gần 2 tháng ở
La Hai, Pleibong, Thích ngo, Pleikueté, Plei-gug (huyện Sơn Hoà,
Đồng Xuân tỉnh Phú Yên và tỉnh Gia Lai ngày nay), họ
đă bắn bị thương thiếu úy Bécne (Becner) và một
số lính địch.
H́nh thức đấu tranh chủ
yếu của người các dân tộc ít người ở
Phú Yên là giết lính bắt phu, làm vườn không nhà trống
để lánh giặc và đánh giặc.
Những năm
1920-1921, thực dân Pháp bắt nhân dân đi xâu và đóng thuế,
A Ma Keng là người đứng đầu buôn Ḥn Ông (dân
tộc Bana ở huyện Sơn Hoà) và A Ma Khok buôn Bei (ngày
nay là huyện M'Drăk, Đăk Lăk) đă tổ chức
nhân dân ở làng Củng Sơn và buôn M’Drăk đấu
tranh chống lại chính sách thuế. Đáng chú ư sự kiện
ở xă Suối Trai gần buôn Thi và Phước Thuận
(huyện Sơn Hoà) nhân dân vận động 50 làng khắp
vùng Nam Tây Nguyên đấu tranh và cử đại diện
xuống Sông Cầu đ̣i quyền lợi. Trước sự
đấu tranh kiên quyết và mạnh mẽ của người
dân miền núi Phú Yên, buộc Công sứ Piérrot phải
nhượng bộ, miễn xâu thuế 3 năm ([110]).
Tóm lại, nhân dân Phú Yên
đă kế thừa truyền thống yêu nước của
dân tộc, tinh thần đấu tranh kiên cường, bất
khuất, truyền thống yêu nước của quê
hương h́nh thành từ trong các cuộc đấu tranh
chống các thế lực bên ngoài (phía Nam), chống lại
ách áp bức, bóc lột của phong kiến trong nước
và tham gia phong trào nông dân Tây Sơn khởi nghĩa hồi cuối
thế kỷ XVIII. Trước t́nh h́nh kinh tế, chính trị,
xă hội Việt Nam vào cuối thế kỷ XIX và những
năm đầu thế kỷ XX, Phú Yên chịu ảnh
hưởng của hoàn cảnh khách quan đối với
phong trào yêu nước ở các địa phương, lại
thông qua tính tích cực chủ quan của Phú Yên trong nhận
thức và hành động; trong đó truyền thống
địa phương mà nét nổi bật là tinh thần
yêu nước, ư chí kiên cường bất khuất của
nhân dân Phú Yên, bắt nguồn từ tính nhân văn, t́nh yêu
quê hương, xứ sở, ḷng khát khao độc lập,
tự do luôn giữ vị trí hàng đầu.
Phong
trào yêu nước chống Pháp ở Phú Yên thời gian này
chưa có những điều kiện để đảm
bảo cho sự thắng lợi hoàn toàn. Nhưng đó là sự
tiếp nối và giữ vững liên tục trong cuộc
đấu tranh vũ trang bảo vệ và khôi phục nền
độc lập dân tộc, trường kỳ của
nhân dân ta. Những tấm gương hy sinh anh dũng của
các lănh tụ nghĩa quân ở Phú Yên luôn được các
thế hệ sau tiếp bước biết ơn, trân trọng
và cảm phục.
Quá tŕnh h́nh thành và phát triển của phong
trào yêu nước chống Pháp ở Phú Yên trước khi
có Đảng ra đời và lănh đạo cách mạng vừa
thể hiện những nét chung của phong trào chống
Pháp cả nước, đồng thời có những đặc
điểm riêng của địa phương, góp phần
làm phong phú bức tranh lịch sử dân tộc và tạo
nên cơ sở thuận lợi để phát triển cuộc
đấu tranh giải phóng dân tộc đi đến thắng
lợi dưới sự lănh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam năm 1930.
NHỮNG CHẶNG
ĐƯỜNG PHÁT TRIỂN
CỦA TỈNH PHÚ YÊN (1930-1975)
I. Lịch sử Phú Yên thời kỳ
1930-1945
1. Đảng bộ
tỉnh Phú Yên ra đời lănh đạo phong trào cách mạng
Ngày 5-10-1930, tại thôn
Đồng Bé – La Hai (Đồng Xuân), Chi bộ Đảng
Cộng sản Việt Nam đầu tiên tại Phú Yên
được thành lập, do đồng chí Phan Lưu
Thanh làm Bí thư Chi bộ. Tại buổi lễ thành lập,
Chi bộ tuyên bố chương tŕnh hoạt động gồm
4 điểm: Tuyên truyền tôn chỉ, mục đích của
Đảng Cộng sản Việt Nam một cách sâu rộng
vào quần chúng công – nông, trí thức, học sinh; thành lập
và phát triển các tổ chức: Nông hội đỏ, Tự
vệ đỏ, Cứu tế đỏ, Đoàn Thanh niên
Cộng sản; tổ chức và lănh đạo quần
chúng đấu tranh, qua đó lựa chọn những quần
chúng ưu tú kết nạp vào Đảng; huấn luyện
đảng viên phương pháp công tác bí mật.
Một thời gian không
lâu kể từ khi Chi bộ Cộng sản đầu tiên
được thành lập, ảnh hưởng của
Đảng lan truyền sâu rộng ở các địa
phương trong tỉnh, nhiều chi bộ mới
được thành lập như Chi bộ Phước
Lănh, Thạnh Đức, Triêm Đức, Phước Hoà,
Phú Xuân, Hà Trung, Hà Bằng (huyện Đồng Xuân), An Thổ,
Ngân Sơn (Tuy An). Tính đến tháng 1-1931, toàn tỉnh
đă thành lập được 17 Chi bộ với 78
đảng viên. Trước sự phát triển của các
cơ sở đảng và đảng viên đ̣i hỏi phải
có sự lănh đạo chung của Đảng trên toàn tỉnh,
do đó vào tháng 1-1931 các đảng viên ṇng cốt của tỉnh
đă tổ chức Hội nghị tại nhà đồng
chí Nguyễn Phục Hưng và quyết định thành lập
Tỉnh uỷ lâm thời gồm có 5 đồng chí. Đồng
chí Phan Lưu Thanh được bầu làm Bí thư Tỉnh
uỷ.
Sự ra
đời của Chi bộ Đảng Cộng sản Việt
Nam đầu tiên và Tỉnh uỷ lâm thời đă mở
ra một thời kỳ mới cho phong trào cách mạng ở
Phú Yên, đáp ứng được nguyện vọng của
giai cấp công nhân, nông dân, tầng lớp trí thức và nhân
dân lao động trong tỉnh.
2. Phong trào cách mạng những
năm 1930-1931 và 1936-1939.
Sau khi Đảng Cộng
sản Việt Nam ra đời (3-2-1930), phong trào cách mạng
trên cả nước phát triển mạnh, đặc biệt
là ở Nghệ An và Hà Tĩnh, ở đó nhiều nơi
đă tổ chức được chính quyền cách mạng,
tiến hành chia lại ruộng công cho nông dân nghèo, bắt
địa chủ giảm tô, giảm tức, lập toà án
xử bọn phản cách mạng. Hoảng sợ trước
khí thế và sức mạnh của cách mạng, bọn thực
dân Pháp và phong kiến tay sai điên cuồng khủng bố
trắng, d́m các “làng đỏ” trong máu lửa. Trước
sự đàn áp dă man của kẻ thù đối với
phong trào cách mạng ở Nghệ - Tĩnh, Tháng 10-1930, Trung
ương Đảng họp Hội nghị lần thứ
nhất vạch rơ: “… Bổn phận
cần kíp của toàn Đảng trong cả xứ là phải
hết sức bênh vực Nghệ - Tĩnh đỏ, mở
rộng phong trào thị uy biểu t́nh, phản kháng lại
thủ đoạn gian ác của đế quốc chủ
nghĩa”. Khẩu hiệu đấu tranh là “Phản đối đế quốc
Pháp thảm sát nông dân Nghệ - Tĩnh!”, “Công nông binh liên hiệp lại ủng
hộ Nghệ - Tĩnh đỏ”.
Thực
hiện chủ trương của Đảng, Tỉnh uỷ
Phú Yên phát động quần chúng tổ chức nhiều
cuộc mít-tinh ủng hộ Nghệ - Tĩnh đỏ,
đồng thời tập dượt quần chúng đấu
tranh chống lại chế độ thuộc địa
của thực dân Pháp. Cuộc mít-tinh chống Pháp đầu
tiên tổ chức vào tháng 4-1931 tại Bầu Rùa, dưới
chân núi Ḥn Chảo (La Hai), do đồng chí Trần Toại ([111]),
Bí thư Tỉnh uỷ truyền đạt, với sự
tham gia của hơn 300 quần chúng nhân dân. Tiếp đó,
trong tháng 6-1931 nhiều cuộc mít-tinh diễn ra Đèo Con
Tôm, băi cát Cồn Loi (Triêm Đức), Ba Cụm (Phước
Long), Đá Mỡ, Đồng Cỏ… Trong các cuộc
mít-tinh, các đảng viên kêu gọi nhân dân đấu tranh
chống thực dân Pháp và phong kiến tay sai Nam triều; tố
cáo bọn tham quan ô lại, kêu gọi nhân dân phối hợp
với đồng bào các tỉnh đấu tranh chống
khủng bố trắng ở Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng
Ngăi. Đồng thời, với việc tổ chức các
cuộc mít tinh, Tỉnh uỷ c̣n cho in nhiều truyền
đơn với các nội dung: phản đối chiến
tranh đế quốc, ủng hộ Liên bang Xô Viết, phản
đối bắn giết đồng bào ở Nghệ - Tĩnh,
Quảng Ngăi, đ̣i bỏ sưu, giảm thuế, bỏ lệ
tuần canh, thả tù chính trị…
Trong lúc phong trào cách mạng
ở Phú Yên có hướng phát triển thuận lợi, Xứ
uỷ Trung Kỳ họp chủ trương hai tỉnh
B́nh Định và Phú Yên phải chuẩn bị lực
lượng, cùng mở cuộc biểu t́nh trong ngày
20-7-1931, nhân ngày kỷ niệm cách mạng tư sản Pháp
14-7 và ngày Quốc tế chống chiến tranh (1-8-1914),
để phát động một cao trào cách mạng, đồng
thời làm phân tán sự khủng bố của thực dân
Pháp đang nhằm vào nhân dân Nghệ - Tĩnh và Quảng
Ngăi. Công việc đang được chuẩn bị tích
cực th́ ngày 13-7-1931, đồng chí liên lạc Sông Cầu
– La Hai bị địch bắt, cùng lúc đó chúng bắt
Phan Xuân Luôn, cháu gọi đồng chí Phan Lưu Thanh bằng
chú đang học ở Sông Cầu để khai thác. V́ thế,
kế hoạch chuẩn bị cho cuộc biểu t́nh bị
lộ. Đêm 17-7-1931, khoảng 30 lính tập, lính giảng
được ô tô chở đến vùng La Hai và 5 làng lân cận.
5 giờ sáng cùng ngày chúng bất ngờ vây ráp và bắt
được hầu hết các đồng chí đảng
viên ở khu vực này.
Sau khi bắt hàng loạt
cán bộ, đảng viên và quần chúng cách mạng giam giữ
trong các nhà lao, bọn địch dùng chính sách dụ dỗ
và tra tấn hết sức dă man để khai thác các cơ
sở cách mạng. Đồng thời, địch vẫn
tiếp tiếp tục cho lùng sục, bắt bớ. Cùng
lúc đó, bọn Lư trưởng, Hương kiểm ngóc
đầu dậy chỉ điểm các cơ sở cách mạng.
Trước t́nh h́nh đó, ngay trong đêm 17-7-1931, các đồng
chí đảng viên trong nhà lao đă thành lập Ban lănh đạo
nhà lao gồm các đồng chí: Phan Lưu Thanh, Bùi Xuân Cảnh,
Nguyễn Tánh, Cao lộc, Nguyễn Khắc Khoan,
Trương Tấn Ích. Ban lănh đạo nhà lao đă đề
ra một số biện pháp như: Tất cả các đồng
chí bị địch bắt không được khai báo ǵ
cho địch, nếu đồng chí nào không chịu nổi
tra tấn th́ chỉ khai tập trung vào đồng chí Phan
Lưu Thanh là có tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản.
Các đảng viên chưa bị lộ phải chuyển
ngay hoạt động vào Tuy Hoà; đấu tranh chống
chế độ hà khắc của nhà tù; t́m cách tố cáo
những những tên Lư trưởng ngoan cố ngóc đầu
dậy lập công với địch, để khoét sâu mâu
thuẫn nội bộ của chúng.
Thực hiện Nghị
quyết của Ban lănh đạo nhà lao Sông Cầu, đồng
chí Việt Hồng (Phan Ngọc Bích) vào Tuy Hoà làm nghề kéo
xe, qua đó t́m cách tuyên truyền, giác ngộ và kết nạp
một số thanh niên ưu tú vào Đảng. Ngày 24-11-1931,
Chi bộ Đảng Tuy Hoà được thành lập tại
chùa Bà, dưới chân núi Nhạn, do đồng chí
Trương Hử làm Bí thư Chi bộ. C̣n ở nhà lao
Sông Cầu, các chiến sĩ cách mạng tổ chức
đấu tranh quyết liệt, buộc chính quyền thực
dân phải mở phiên toà xét xử vào ngày
Phong trào cách mạng ở
Phú Yên từ cuối năm 1931 đến năm 1935 tạm
thời lắng xuống, nhưng các cơ sở cách mạng
trong nhân dân vẫn được duy tŕ, các đảng viên
c̣n lại tiếp tục hoạt động, bí mật móc
nối cơ sở, duy tŕ đường dây liên lạc. Giữa
năm 1935, các đảng viên ở phủ Tuy Ḥa ghép lại
thành hai chi bộ, với 16 đảng viên. Cuối năm
1935, đồng chí Trần Hào cùng với một số
đảng viên ở Tuy Hoà lập Ban vận động
thành lập Tỉnh uỷ tại g̣ Thủ Kỳ, thôn
Phước Hậu. Tháng 6-1936, Đại
hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Phú Yên
lần thứ nhất được tổ chức tại
làng Phước Hậu (xă B́nh Kiến). Đại hội
chủ trương tập trung đẩy mạnh phong trào
đấu tranh của nhân dân, phát triển các tổ chức
quần chúng và chú trọng công tác xây dựng Đảng.
Đại hội đă bầu Tỉnh uỷ gồm 7
đồng chí do đồng chí Trần Hào làm Bí thư Tỉnh
uỷ. Tỉnh uỷ Phú Yên được phục hồi,
tiếp tục lănh đạo phong trào cách mạng ở Phú
Yên cùng với cả nước bước vào cuộc
đấu tranh mới: Đ̣i dân chủ, dân sinh.
Tháng
7-1936, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng
họp xác định: Kẻ thù trước mắt của
nhân dân Đông Dương là bọn phản động thuộc
địa Pháp và tay sai; mục tiêu trước mắt của
cách mạng Đông Dương là chống chế độ
phản động thuộc địa, chống chủ
nghĩa phát xít và chiến tranh đế quốc, đ̣i tự
do cơm áo, hoà b́nh. Hội nghị quyết định
thành lập Mặt trận nhân dân phản đế
Đông Dương (đến tháng 3-1938 đổi thành Mặt
trận dân chủ Đông Dương) để tập hợp
các giai cấp, các lực lượng chính trị xă hội
tán thành cải cách dân chủ và tiến bộ. Về h́nh thức
đấu tranh, Hội nghị chỉ rơ phải triệt
để lợi dụng khả năng hợp pháp và nửa
hợp pháp.
Thực hiện chủ
trương của Trung ương Đảng, Tỉnh uỷ
Phú Yên đă chỉ đạo các tổ chức quần
chúng hoạt động dưới hai h́nh thức công khai
và nửa công khai. Về h́nh thức công khai: lập các nhóm
đọc sách báo tiến bộ, các đội bóng đá,
các lớp học ban đêm xoá nạn mù chữ…; về h́nh
thức nửa công khai: lập các Hội ái hữu nông dân,
Tương tế nông dân, Hội ái hữu thợ máy, Liên
đoàn xe hơi Tuy Hoà – Sông Cầu – Quy Nhơn. Các tổ chức
quần chúng phát triển nhanh vào các năm 1936-1937, số quần
chúng có tổ chức trong thời kỳ này lên đến
hàng ngàn người, đông nhất là ở các huyện Tuy
An, Tuy Hoà và Đồng Xuân. Nhiều cuộc đấu
tranh đ̣i dân sinh, dân chủ nổ ra trên địa bàn tỉnh,
nổi bật là cuộc đấu tranh của công nhân ở
Nhà máy đường Đồng Ḅ chống cúp phạt, sa
thải, chống bọn tư sản Pháp cướp đất
mở đồn điền trồng mía.
Đầu năm 1937,
Chính phủ Mặt trận b́nh dân Pháp cử Gôđa sang
điều tra t́nh h́nh thuộc địa ở Đông
Dương. Tỉnh uỷ Phú Yên đă cử cán bộ thâm
nhập các vùng nông thôn thu thập ư kiến, nguyện vong,
kư tên vào bản “Dân nguyện”, tố cáo tội ác của
Pháp. Đồng thời phát động các tổ chức
quần chúng đón Gôđa tại ga Tuy Hoà, Hoà Đa, Chí Thạnh.
Hoảng sợ trước sự bùng phát của nhân dân các
nơi, bọn tay sai t́m mọi cách phá hoại, chúng đưa
Gôđa từ Quy Nhơn lên Đà Lạt về Sài G̣n, rồi
ra thẳng Hà Nội. Cũng trong năm 1937, Tỉnh uỷ
vận động các địa phương trong tỉnh
bầu người của cách mạng vào Viện Dân biểu
Trung Kỳ để có điều kiện đấu tranh
nghị trường đ̣i quyền lợi cho nhân dân. Nhờ
có cuộc đấu tranh nghị trường mà ngày
16-9-1938, Nghị viện Trung Kỳ đă bác bỏ dự
án tăng thuế thân, thuế điền thổ của thực
dân Pháp.
Tháng 8-1938, để củng
cố và tăng cường sự lănh đạo đối
với phong trào cách mạng của quần chúng, Đại hội Đảng bộ
tỉnh Phú Yên lần thứ hai được triệu
tập tại thôn Phú Vang, xă B́nh Kiến. Đại hội
đă bầu Tỉnh uỷ gồm 7 đồng chí, đồng
chí Trần Hào được bầu làm Bí thư Tỉnh uỷ.
Sau một thời gian hoạt động, đồng chí
Trần Hào bị địch theo dơi, đồng chí đă
đề nghị Tỉnh uỷ bầu đồng chí Huỳnh
Nựu làm Bí thư Tỉnh uỷ. Sau Đại hội, Tỉnh
uỷ tiếp tục duy tŕ và thực hiện chủ
trương đấu tranh hợp pháp với địch,
đặc biệt là dùng bộ máy giai cấp thống trị
để chống lại chúng. Tỉnh uỷ đă cử
một số đảng viên ra làm Hương, Lư nhằm tập
hợp quần chúng, khéo léo đ̣i chính quyền thực dân
thi hành các quyền tự do, dân chủ, dân sinh, củng cố
và phát triển cơ sở cách mạng.
Ngày 14-7-1939, thực hiện
chủ trương của Xứ uỷ, Tỉnh uỷ tổ
chức cuộc mít tinh lớn tại Tuy Hoà, do đồng
chí Huỳnh Nựu, Bí thư Tỉnh uỷ chủ tŕ, tố
cáo chính sách sưu cao thuế nặng và sự đàn áp, khủng
bố của thực dân Pháp; đồng thời giải
thích cho nhân dân thấy chiến tranh phát xít đang đến
gần, kêu gọi nhân dân chống phát xít, đ̣i Pháp nới
rộng quyền dân sinh, dân chủ… Hoảng sợ trước
khí thế của quần chúng nhân dân, bọn thống trị
ra lệnh báo động, cho lính vây bắt các đồng
chí lănh đạo của ta. Sau cuộc mít tinh, đồng
chí Huỳnh Nựu cùng nhiều đảng viên và quần
chúng ṇng cốt bị địch bắt và kết án tù.
Không khí khủng bố, bắt bớ bao trùm, căng thẳng
khắp nơi trong tỉnh.
3. Phú Yên trong cao trào giải phóng
dân tộc và tổng khởi nghĩa giành chính quyền
(1939-1945).
Ngày
Trước t́nh h́nh
đó, tháng 11-1939, Hội nghị Trung ương Đảng
lần thứ 6 họp đặt nhiệm vụ giải
phóng dân tộc lên hàng đầu, quyết định tạm
gác khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của
địa chủ, chỉ tịch thu ruộng đất của
bọn đế quốc và tay sai, thành lập Mặt trận
thống nhất phản đế thay cho Mặt trận
dân chủ của thời kỳ 1936-1939. Các Hội nghị
Trung ương lần thứ 7 tháng 11-1940 và lần 8 tháng
5-1941 tiếp tục chủ trương đặt vấn
đề giải phóng dân tộc lên hàng đầu.
Ở Phú Yên, thực dân
Pháp phát xít hoá bộ máy cai trị bằng những chính sách
phản động và thủ đoạn trắng trợn:
Bắt thanh niên đưa sang Pháp làm bia đỡ đạn,
bắt phu xây dựng đường sá, công tŕnh quân sự;
tiến hành khủng bố, bắt bớ các đảng
viên cộng sản và những người yêu nước.
Ngày 5-4-1940, Pháp lập căng an trí Trà Kê để giam cầm
đảng viên cộng sản. Chúng đóng thêm đồn
lính khố xanh ở Trà kê, Cà Lúi. Việc cai trị người
Thượng do những tên đồn trưởng người
Pháp thực hiện, quan lại Nam triều không có quyền
hành ǵ. C̣n ở đồng bằng, ngoài việc tăng
thêm lính khố đỏ ở Tỉnh lỵ, trang bị
thêm súng cho các phủ, huyện, chúng tăng cường lính
khố xanh ở Sông Cầu, Tuy Hoà.
Phong trào cách mạng ở
Phú Yên từ cuối năm 1939 đến đầu
năm 1945 tạm thời lắng xuống do các cơ sở
đảng và hầu hết đảng viên lănh đạo
bị bắt trong cuộc mít tinh ngày 14-7-1939, nên đường
lối, chủ trương mới của Đảng không
đến được với quần chúng nhân dân. Tuy vậy,
ở một số nơi phong trào cách mạng vẫn nổ
ra, như: Đầu năm 1941, công nhân Nhà máy đường
Đồng Ḅ lập “Hội ái hữu thợ thuyền”
để tương trợ và giúp đỡ nhau trong công
việc, đồng thời tuyên truyền cho công nhân thấy
được tính chất bóc lột tàn bạo của bọn
chủ. Tháng 4-1941, trên 500 nông dân ở các thôn Tân Mỹ,
Phước Thành, Mỹ Thạnh (Phủ Tuy Hoà) đă
đánh nhau với bọn lính bang tá đến chiếm ruộng
đất làm cho một số lính bị thương. Trong
điều kiện mất liên lạc với Đảng cấp
trên và tổ chức chi bộ không c̣n, các đảng viên
c̣n lại chủ động hoạt động
đơn lẻ, t́m cách gây dựng lại phong trào.
Đêm 9-3-1945, Nhật
đảo chính Pháp, chỉ trong ṿng một ngày, Pháp hạ vũ
khí đầu hàng Nhật trên toàn cơi Đông Dương. Từ
ngày 9-3 đến ngày 12-3-1945, Thường vụ Trung
ương Đảng họp ra Chỉ thị “Nhật – Pháp bắn nhau và hành
động của chúng ta”, phát động cao trào kháng Nhật
cứu nước với khẩu hiệu “Đánh đuổi phát xít Nhật”.
Ở Phú Yên, bộ máy cai
trị của thực dân Pháp bỏ Tỉnh lỵ Sông Cầu
chạy lên Trà Kê. Sáng hôm sau Nhật bắt được
đưa về Sông Cầu. Đồn khố xanh Sông Cầu
và Trà Kê đầu hàng Nhật, giao toàn bộ vũ khí, quân
trang, quân dụng cho Nhật. Sau khi quân Nhật làm chủ
t́nh h́nh, bọn thân Nhật bắt đầu hoạt động,
chúng tổ chức mít tinh ở Hoà Đa, Ngân Sơn để
hoan nghênh quân Nhật và chính sách Đại Đông Á. Một
số tổ chức thân Nhật ra đời như tổ
chức thanh niên Phan Anh, Hội truyền bá quốc ngữ…
Mặc dù hất cẳng
được quân Pháp để độc chiếm
Đông Dương, nhưng chính quyền bù nh́n Trần Trọng
Kim do Nhật dựng lên chưa ổn định, mâu thuẫn
giữa Pháp và Nhật ngày càng gay gắt. Cuối tháng 3-1945,
quân Nhật ở Đông Dương liên tiếp bị quân
Đồng Minh đánh cho tan tác. Ở trong nước,
phong trào kháng Nhật cứu nước ngày một dâng cao.
Trước t́nh h́nh đó, các đảng viên cũ như
Phan Thanh Cưu, Nguyễn Hạnh, Nguyễn Ngọc Cầu…
đă liên lạc được với nhau, tổ chức
họp tại nhà đồng chí Nguyễn Văn Nguyên ở
Sông Cầu, bàn về việc nắm lại các tổ chức
quần chúng yêu nước, chuẩn bị lực lượng,
tích cực bắt liên lạc với Xứ uỷ để
có sự chỉ đạo chung.
Trong khi những người
cộng sản ở Phú Yên đang t́m cách liên lạc với
tổ chức đảng cấp trên, th́ vào giữa tháng
5-1945, các đồng chí Trương Chí Cương
(Trương Kiểm), Đoàn Sơ (Sửu), Hoàng Văn
Phúc (Xuân) và Lê Cấp (Mẫn) được các đồng
chí Nguyễn Chí Thanh, Trần Hữu Dực trong Đảng
uỷ nhà lao Buôn Ma Thuột phân công về Phú Yên với nhiệm
vụ chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa. Đến
Phú Yên đồng chí Trương Kiểm liên lạc
được với các đồng chí Nguyễn Thái và Lê
Duy Trinh. Qua các đồng chí này, đồng chí
Trương Kiểm biết được Tỉnh uỷ
Phú Yên chưa được khôi phục và mất liên lạc
với Xứ uỷ từ cuối năm 1939. Trước
t́nh h́nh ấy, đồng chí Trương Kiểm cùng với
các đồng chí ở Buôn Ma Thuột về, phân công nhau
đi các phủ, huyện liên lạc với các đảng
viên đang hoạt động đơn tuyến, khẩn
trương tiến hành thành lập Tỉnh uỷ lâm thời.
Sau một thời gian, các đồng chí bắt liên lạc
được với các đảng viên cũ như đồng
chí Nguyễn Văn Nguyên, Phan Thanh Cưu, Huỳnh Liên, Nguyễn
Quốc Thoại, Huỳnh Nựu, Huỳnh Lưu, Nguyễn
Hạnh…
Ngày
12-6-1945, các đồng chí ở Buôn Ma Thuột về cùng với
đồng chí Nguyễn Thái gặp nhau tại nhà một hội
viên Hội nông dân cứu quốc tên là Công Tiếu ở
làng Hoà Đa, bàn việc thành lập Tỉnh uỷ lâm thời.
Cuộc họp quyết định: Khẩn trương nắm
chắc các đoàn thể quần chúng sẵn sàng huy động
lực lượng xuống đường; xây dựng
các đơn vị tự vệ vũ trang; tổ chức
chức Đại hội Việt Minh tỉnh; chuẩn bị
người thành lập Uỷ ban dân tộc giải phóng
các cấp, trước hết là tỉnh, huyện. Cuộc
họp cũng thống nhất thành lập Tỉnh uỷ
lâm thời, do đồng chí Trương Kiểm làm Bí
thư.
Ngày
Ngày 20-8-1945, đồng
chí Nguyễn Văn Nguyên biết tin Nhật đầu hàng
Đồng Minh, đă bàn với các đồng chí đang
có mặt ở Tỉnh lỵ Sông Cầu quyết định
huy động lực lượng quần chúng ở huyện
Đồng Xuân về Sông Cầu để giành chính quyền.
Đồng thời, đồng chí Nguyễn Văn Nguyên
vào Hoà Đa báo cáo trực tiếp với đồng chí
Trương Kiểm về ư định và quyết tâm của
ḿnh. Sau khi phân tích thảo luận, hai đồng chí quyết
định triệu tập Uỷ ban Việt Minh tỉnh
để bàn bạc kỹ lưỡng. Ngay tối
20-8-1945, Uỷ ban Việt Minh tỉnh họp tại Chí Thạnh
bàn việc chuẩn bị khởi nghĩa.
Ngày
Giữa lúc nhân dân khắp
nơi trong tỉnh đang hừng hực khí thế chờ
lệnh tổng khởi nghĩa, th́ chiều ngày 23-8-1945,
đồng chí Lê Tự Nhiên phái viên của Xứ uỷ
đến gặp Tỉnh uỷ và Thường vụ Việt
Minh truyền đạt mệnh lệnh Tổng khởi
nghĩa. Ngay sau đó, đồng chí Trương Kiểm
triệu tập cuộc họp Tỉnh uỷ mở rộng
tại Sông Cầu. Cuộc họp đă nghe đồng chí
Lê Tự Nhiên phổ biến chương tŕnh chung và mệnh
lệnh Tổng khởi nghĩa toàn quốc của Uỷ
ban khởi nghĩa Trung ương. Cuộc họp đă
quyết định thành lập Uỷ ban khởi nghĩa
tỉnh, do đồng chí Trương Kiểm làm Trưởng
ban.
Tối ngày 23-8-1945, Uỷ
ban khởi nghĩa tỉnh họp tại nhà đồng
chí Nguyễn Văn Nguyên và đề ra kế hoạch khởi
nghĩa: Ở tỉnh cũng
như ở phủ, huyện khởi nghĩa cùng thời
điểm vào nửa đêm ngày 24-8; nơi nào có đồn
lính khố xanh th́ lấy đồn, sau đó chiếm ngay
các công sở; huy động sức mạnh của quần
chúng kết hợp với các đội tự vệ vơ
trang để giành chính quyền, cần huy động một
phần lực lượng quần chúng của các địa
phương lân cận để hỗ trợ cho Tỉnh
lỵ Sông Cầu và khu Tuy Hoà; xoá bỏ chính quyền bù nh́n
xong, tuyên bố thành lập ngay chính quyền cách mạng; Uỷ
ban khởi nghĩa tỉnh trực tiếp chỉ huy cuộc
khởi nghĩa tại Tỉnh lỵ Sông Cầu; riêng khu
Tuy Hoà, Uỷ ban khởi nghĩa tỉnh sẽ bắt Tỉnh
trưởng Hồ Ngận đến Tuy Hoà giao đồn,
tiếp đó lực lượng khởi nghĩa phối
hợp cướp chính quyền ở phủ Tuy Hoà, lực
lượng này do đồng chí Nguyễn Chấn thuộc
Uỷ ban khởi nghĩa Tuy Hoà lănh đạo.
Thực hiện kế hoạch
đă định, đúng 23 giờ đồng chí Nguyễn
văn Thuận và một số lính khố xanh đă
được giác ngộ, bí mật đưa các đồng
chí Trương Kiểm, Nguyễn Văn Nguyên, Hoàng Văn
Phúc, Nguyễn Thái, Nguyễn Nên và một đơn vị tự
vệ vào đồn khố xanh Sông Cầu. Sau khi vào đồn,
đồng chí Trương Kiểm phát biểu về t́nh
h́nh khởi nghĩa trên cả nước, mục đích của
Mặt trận Việt Minh và kêu gọi binh lính trong đồn
đi theo Việt Minh. Hầu hết binh lính đều xin
tham gia quân đội cách mạng.
Đúng 0 giờ đêm 24
rạng 25-8, Tỉnh trưởng chính quyền ngụy là Hồ
Ngận giao ấn tín và tài liệu cho đồng chí Nguyễn
Thái. Sáng cùng ngày, nhân dân khắp nơi tập trung đông
đảo trước Tỉnh đường với rừng
cờ đỏ sao vàng. Đồng chí Trương Kiểm
tuyên bố thành lập chính quyền cách mạng. Sau đó,
Uỷ ban khởi nghĩa tỉnh đă cử đồng
chí Nguyễn Thái đưa Hồ Ngận vào Tuy Hoà để
lệnh cho tên đồn trưởng Tuy Hoà giao đồn
cho cách mạng. Tên đồn trưởng Tuy Hoà ngoan ngoăn
nghe theo. Cùng lúc đó, lực lượng khởi nghĩa
khu Tuy Hoà do đồng chí Nguyễn Quốc Thoại chỉ
huy cũng kéo đến. Sau khi được trang bị
thêm một số súng đạn lấy trong đồn, lực
lượng tự vệ để lại một
đơn vị canh giữ đồn khố xanh, số
c̣n lại đi chiếm phủ Tuy Hoà. Khi đến
nơi, tên tri phủ đă bỏ trốn, ta thu toan bộ vũ
khí, tài liệu. Cũng trong ngày 25-8, Uỷ ban khởi nghĩa
cử một cán bộ cùng với Đội Long (Nguyễn
Long), cơ sở cách mạng trong đồn bảo an Sông
Cầu và hai binh lính đi tiếp quản đồn Trà Kê ở
Sơn Hoà.
Sáng ngày
Tối ngày
Cuộc khởi nghĩa Tháng Tám trên toàn tỉnh Phú
Yên hoàn toàn thắng lợi!
II. Phú Yên kháng chiến chống Pháp
(1945-1954).
1. Xây dựng chính quyền nhân
dân, chuẩn bị kháng chiến lâu dài (1945-1946).
Sau khởi nghĩa giành
chính quyền, nhân dân Phú Yên rất phấn khởi trong cuộc
sống tự do độc lập, ḷng dân hướng về
Đảng, Chính phủ và Bác Hồ. Dưới sự lănh
đạo của chính quyền cách mạng, nhân dân trong tỉnh
đoàn kết xây dựng cuộc sống mới và chuẩn
bị kháng chiến. Bên cạnh những thuận lợi
cơ bản đó, Phú Yên gặp rất nhiều khó
khăn, thử thách: Nền kinh tế và đời sống
nhân dân bị đảo lộn, hàng hoá dư thừa
như muối, mắm, đường, thuốc lá… không
tiêu thụ được, trong khi nhiều mặt hàng thiết
yếu khác như vải, xà pḥng, dầu lửa, giấy lại
hết sức khan hiếm. Khi ta cướp được
chính quyền, trong kho bạc của ngụy quyền Phú Yên
chỉ có 300.000 đồng bạc Đông Dương. Về
chính trị, chính quyền trong tỉnh vừa mới thành lập
chưa kịp củng cố, cơ sở chính trị
chưa phát triển rộng răi, nhất là ở vùng đồng
bào các dân tộc thiểu số. Lực lượng vũ
trang chưa được xây dựng, đời sống
kinh tế, văn hoá, giáo dục của nhân dân c̣n nghèo nàn, lạc
hậu.
Để khắc phục
t́nh h́nh, Tỉnh uỷ lâm thời Phú Yên một mặt tích
cực chỉ đạo một cách toàn diện phong trào
cách mạng trong tỉnh, mặt khác tập trung vào vấn
đề xây dựng Đảng. Tỉnh uỷ khôi phục
Đảng tịch cho một số đảng viên và các
chi bộ hoạt động trước cách mạng Tháng
Tám. Đồng thời chọn lựa những đối
tượng ưu tú trong các đoàn thể quần chúng
để phát triển Đảng và xây dựng các chi bộ
mới.
Tháng 10-1945, Chính quyền
và Uỷ ban Việt Minh tỉnh tổ chức cho cán bộ
trong tỉnh học tập thư của Hồ Chủ tịch.
Bức thư của Người có đoạn viết: “Việc ǵ có lợi cho dân, ta phải
hết sức làm. Việc ǵ có hại cho dân, ta phải hết
sức tránh. Chúng ta phải yêu dân, kính dân th́ dân mới yêu
ta, kính ta”. Sau học tập thư của Hồ Chủ
tịch, bộ máy Việt Minh và bộ máy chính quyền các
cấp bước đầu được củng cố
và kiện toàn. Về chính quyền, tiến hành thay thế
những thành viên yếu kém, không đủ tin cậy,
đưa những những người có uy tín, năng lực
vào uỷ ban hành chính các cấp. Riêng ở các làng vùng đồng
bào dân tộc thiểu số, cán bộ chủ chốt là
người dân tộc, cấp phó thường là cán bộ
người kinh. Song song với việc củng cố chính
quyền các cấp, tỉnh đẩy mạnh việc
tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng,
Chính phủ và Mặt trận Việt Minh để củng
cố các tổ chức đoàn thể cứu quốc.
Ngày 6-1-1946, thực hiện
lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh và
Chính phủ, hơn 98% cử tri ở Phú Yên từ 18 tuổi
trở lên, không phân biệt nam nữ, dân tộc, tôn giáo,
đảng phái nô nức đi bầu cử Quốc hội
khoá I. Tiếp đó, tháng 3-1946, cử tri toàn tỉnh lại
đi bầu cử Hội đồng nhân dân tỉnh khoá
đầu tiên. Danh sách ứng cử viên do Mặt trận
Việt Minh giới thiệu gồm có đại biểu của
nông dân, công nhân, trí thức, các dân tộc thiểu số.
Qua hai lần bầu cử, có 20 vị trúng cử chính thức
và 5 đại biểu dự khuyết.
Giữa năm 1946, tỉnh
Phú Yên thực hiện chủ trương của Uỷ ban
hành chính Trung bộ tiến hành bỏ cấp thôn và cấp
tổng, nhập các thôn thành xă, trên xă là huyện. Sau đợt
nhập xă đầu tiên, toàn tỉnh có 84 xă với dân số
280.000 người. tiếp đó, tháng 7-1946, thành lập Uỷ
ban kháng chiến các cấp song song với Uỷ ban hành
chính. Đi đôi với chăm lo xây dựng chính quyền
các cấp, Tỉnh uỷ cũng rất chú trọng phát huy
và mở rộng Mặt trận Việt Minh và các đoàn thể
cứu quốc. Các đoàn thể cứu quốc như:
Công nhân, Nông dân, Thanh niên, Phụ nữ… tích cực phát triển
hội viên mới, có tác dụng tăng cường
đoàn kết và huy động quần chúng vào sự nghiệp
kháng chiến kiến quốc.
Để tăng cường
sức mạnh của Đảng bộ, tháng 10-1947, Đại hội đại biểu
Đảng bộ tỉnh Phú Yên lần thứ I trong
kháng chiến chống Pháp được tổ chức tại
xóm Thanh Đức, làng Phước Hậu, xă B́nh Kiến.
Dự Đại hội có 38 đại biểu thay mặt
cho 1.066 đảng viên trong toàn Đảng bộ. Đại
hội đánh giá phong trào cách mạng của tỉnh sau khởi
nghĩa Tháng Tám 1945 có nhiều tiến bộ, cán bộ,
nhân dân đoàn kết, tin tưởng vào sự lănh đạo
của Đảng và Chính phủ, các mặt công tác kháng chiến,
kiến quốc phát triển tốt. Đại hội bầu
Ban Chấp hành Đảng bộ gồm có 7 uỷ viên chính
thức, 2 uỷ viên dự khuyết. Đồng chí Lê Vụ
được bầu làm Bí thư Tỉnh uỷ.
Tháng 11-1946, để
đối phó với âm mưu mở rộng chiến tranh
của thực dân Pháp, tỉnh Phú Yên thực hiện chủ
trương của Uỷ ban hành chính Trung bộ chia toàn tỉnh
ra làm 6 chiến khu, ở mỗi chiến khu thành lập một
Uỷ ban kháng chiến chiến khu để chỉ đạo
việc luyện tập dân quân, sản xuất vũ khí,
tiêu thổ kháng chiến, động viên thanh niên ṭng quân.
Song song với việc
xây dựng hệ thống chính trị, để khắc
phục nạn đói, ổn định đời sống
nhân dân và chuẩn bị kháng chiến lâu dài, Tỉnh uỷ
và Uỷ ban hành chính tỉnh vận động nhân dân
hưởng ứng nhiệt liệt lời kêu gọi của
Hồ Chủ tịch “Cứ 10 ngày nhịn ăn một bữa,
đem gạo để cứu dân nghèo”. Tỉnh c̣n tổ
chức một số thuyền buồm nhỏ vào
Trong khi nhân dân Phú Yên
đang nỗ lực xây dựng chính quyền cách mạng
và đẩy mạnh sản xuất, vào tháng 1-1946, thực
dân Pháp đă huy động 15.000 quân, mở cuộc hành quân
tiến đánh mở rộng Nam Trung bộ, nhưng bị
ta chặn lại ở Đèo Cả, Đông Cheo Reo và Nam
Gia Lai. Từ năm 1946, tỉnh Phú Yên trở thành tiền
tiêu của mặt trận phía Nam vùng tự do Liên Khu V, bị
địch bao vây 3 mặt từ Đắc Lắc, Khánh Hoà
và vùng biển phía Đông. Trước t́nh h́nh đó, Tỉnh
uỷ và Uỷ ban kháng chiến phát động phong trào toàn
dân đánh giặc, hỗ trợ và phục vụ đánh
địch ở vùng bị chiếm Khánh Hoà, Đắc Lắc,
sẵn sàng đánh địch khi chúng mở rộng
đánh chiếm, trước hết là xây dựng lực lượng
dân quân tự vệ ở các xă và tổ chức xây dựng
xưởng quân giới sản xuất vũ khí.
Tháng 6-1946, Pháp mở cuộc
tấn công đánh chiếm vùng tự do Nam Trung bộ, trực
tiếp uy hiếp Phú Yên. Quân và dân Phú Yên thực hiện
“Tiêu thổ kháng chiến” nhằm ngăn chặn bước
tiến và âm mưu “Lấy chiến tranh nuôi chiến tranh”
của giặc. Dân quân và thanh niên Tuy Hoà kéo vào Đèo Cả
phá đường, phá cầu, cùng Vệ quốc đoàn
xây dựng tuyến bố pḥng chống giặc đă
ngăn chặn được sự mở rộng chiếm
đóng của quân Pháp.
2. Chống địch lấn
chiếm, xây dựng hậu phương kháng chiến
(1947-1949).
Ngày 19-12-1946, thay mặt
Đảng và Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc quốc
kháng chiến. Tiếp đó, ngày 22-12-1946, Trung
ương Đảng ra Chỉ thị “Toàn dân kháng chiến”, vạch rơ phương châm
cơ bản của cuộc kháng chiến là toàn dân, toàn diện, lâu dài và tự
lực cánh sinh. Hưởng ứng Lời kêu gọi của
Hồ Chủ tịch và chấp hành Chỉ thị của
Trung ương Đảng, Đảng bộ Phú Yên phát
động toàn dân vũ trang, sẵn sàng đánh địch
mở rộng vùng lấn chiếm, bảo vệ quê
hương.
Ngày
Để hoàn thành nhiệm
vụ lănh đạo cuộc kháng chiến, Tháng 2-1948, Đại hội đại biểu
Đảng bộ tỉnh Phú Yên lần thứ II trong
kháng chiến chống Pháp được triệu tập tại
thôn Phú Phong, xă An Chấn, Huyện Tuy An, với sự tham
gia của 50 đại biểu, thay mặt cho 1.249 đảng
viên trong toàn Đảng bộ. Đại hội tập
trung thảo luận những vấn đề cấp bách
nhằm bảo vệ xây dựng vùng tự do, đẩy mạnh
tấn công địch trong vùng bị tạm chiếm; phát
động cuộc vận động xây dựng chi bộ
tự động công tác. Đại hội đă bầu
Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh gồm có 10 uỷ
viên chính thức, 2 uỷ viên dự khuyết. Đồng
chí Lê Vụ được bầu lại làm Bí thư Tỉnh
uỷ.
Sau những lần thất
bại khi đưa quân đánh chiếm vùng tự do bằng
bộ binh, từ năm 1948 địch chuyển sang
đánh phá bằng không quân, hải quân. Đi đôi với
việc oanh tạc bằng máy bay, địch đổ bộ
đánh phá mạnh vùng ven biển, đốt phá xóm làng, thuyền
lưới, giết hại người dân. Từ tháng 7
đến tháng 9-1948, các cuộc đổ bộ và càn quét
ven biển của địch đă giết hại 60
người của ta. Để đổi phó với t́nh
h́nh, tỉnh phát động phong trào toàn dân pḥng không, lập
tuyến bố pḥng và làng chiến đấu ven biển
nên đă hạn chế được sự thiệt hại
do các cuộc tập kích của địch.
Tháng 3-1949, Đại hội đại biểu
Đảng bộ tỉnh Phú Yên lần thứ III trong
kháng chiến chống Pháp được tổ chức tại
Đ́nh làng Hà Bằng, xă Xuân Sơn, huyện Đồng
Xuân. Đại hội nêu quyết tâm động viên cán bộ
chiến sỹ và nhân dân ra sức xây dựng và bảo vệ
vùng tự do, tích cực phục vụ tiền tuyến;
đồng thời chú trọng công tác xây dựng Đảng.
Đại hội bầu Ban Chấp hành gồm có 14 uỷ
viên, đồng chí Lê Vụ tiếp tục được
bầu làm Bí thư Tỉnh uỷ.
Thực hiện Nghị
quyết của Đại hội Đảng bộ tỉnh,
các phong trào cách mạng ở Phú Yên diễn ra hết sức
sôi nổi. Phong trào ṭng quân nhập ngũ được
nhân dân hưởng hướng nhiệt liệt, trong
năm 1949, toàn tỉnh tuyển được 1.300 tân binh,
đáp ứng đủ yêu cầu bổ sung lực lượng
cho các trung đoàn chủ lực. Trong phong trào toàn dân tham gia
xây dựng lực lượng vũ trang, nổi lên các
phong trào “Hội mẹ chiến sỹ”, “Mùa đông binh sỹ”,
các mẹ, các chị nhiệt t́nh nuôi dưỡng
thương binh, tổ chức các đợt lạc quyên
tiền, vải may quần áo cho bộ đội. Phong trào
chiến tranh du kích phát triển mạnh nhiều nơi
trong tỉnh như ở các huyện Tuy Hoà, Đồng
Xuân, Sơn Hoà.
Trong những năm
1947-1949, công tác xây dựng nền kinh tế, văn hoá, giáo
dục của chế độ mới được Tỉnh
uỷ và Uỷ ban kháng chiến hành chính tỉnh chú trọng.
Về kinh tế, tỉnh phát động phong trào khai hoang
phục hoá, đắp đập, đào mương,
tăng gia sản xuất. Trong 2 năm 1947-1948 toàn tỉnh
khai hoang được 870 ha đất nông nghiệp; hoàn
thành việc đắp đập Liên Hiệp Mỹ,
đào mương Cẩm Tú (Tuy Hoà), khai mương chống
úng ở Bầu Súng (Tuy An), đại tu thuỷ nông Đồng
Cam… Do vậy, từ năm 1947, Phú Yên không chỉ đủ
ăn mà c̣n có lương thực bán cho các tỉnh Quảng
Ngăi, Quảng
3. Chống địch đánh
phá vùng tự do; tổng động viên nhân tài vật lực,
phục vụ chiến đấu (1950-1952).
Bước sang năm
1950, t́nh h́nh có nhiều chuyển biến thuận lợi, lực
lượng ta trên cả nước phát triển mạnh
đủ sức mở các cuộc tấn công lớn vào
quân địch. Tháng 4-1950, Đại
hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Phú Yên
lần thứ IV trong kháng chiến chống Pháp được tiến hành tại
làng Trung Lương, xă An Nghiệp, huyện Tuy An. Đại
hội đề ra nhiệm vụ cho toàn Đảng bộ
là gấp rút hoàn thành công tác chuẩn bị phản công và
chuyển mạnh sang tổng phản công. Đại hội
đă bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 11
đồng chí, do đồng chí Lê Trọng Khoan làm Bí
thư Tỉnh uỷ.
Từ
năm 1950, do không đủ sức đánh chiếm vùng tự
do và tiêu diệt bộ đội chủ lực của ta,
quân Pháp chuyển sang đánh phá kinh tế, chủ yếu là
sản xuất nông nghiệp, thủy lợi, giao thông vận
tải và đẩy mạnh chiến tranh tâm lư, chiến
tranh gián điệp, ḥng giành lại thế chủ động.
Năm 1951, địch dùng máy bay đánh phá cầu máng Đồng
ḅ, thả ḿn cầu máng Suối Cái. Tháng 5-1952, hai hệ thống
này bị quân Pháp đánh sập. Đi đôi với việc
đánh phá các công tŕnh thủy lợi, địch ra sức
bắn giết trâu ḅ, rải sâu bọ phá hoại mùa màng,
làm cho chúng ta trong các năm 1951-1952 bị thiệt hại nặng
về kinh tế. Ở vùng ven biển, địch kết
hợp không quân, hải quân và biệt kích đổ bộ
đánh phá hết sức ác liệt. Ở vùng núi, bọn
địch tổ chức các đội quân đi lùng sục,
càn quét, lập tề, bắt phu, bắt lính.
Trước t́nh h́nh
đó, Tỉnh ủy và Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh
đă có những biện pháp chỉ đạo kịp thời
nhằm hạn chế tổn thất, đồng thời
củng cố và giữ vững phong trào cách mạng ở
các địa phương như: Thành lập “Quỹ chống
khủng bố” để giúp đỡ những gia
đ́nh bị địch đánh phá, tổn thất về
người và của, chuyển một số ngư dân miền
biển từ nghề lớn sang nghề nhỏ, cho nhân
dân vay vốn mua sắm thuyền bè, ngư cụ tái sản
xuất… Mặt khác, phát động phong trào toàn dân giết
giặc. Hưởng ứng phong trào này, du kích xă Hoà Xuân bao
vây tiêu diệt địch đóng ở Núi Hiềm, đẩy
chúng vào t́nh thế khốn quẫn. Ở miền Tây, tháng
5-1951, địch phải rút khỏi đồn Ma Phu, chuyển
qua đóng đồn ở Chân Lơn nhằm ngăn chặn
ta đi vào vùng địch hậu Đắc Lắc. Phong
trào toàn dân pḥng gian, bảo mật, chống lại các luận
điểm tuyên truyền xuyên tạc, bắt gián điệp,
mật thám cũng được phát huy, v́ thế mà địch
không gây ra được vụ phá hoại nào đáng kể.
Để chuẩn bị
cho công tác chuyển sang phản công và tổng phản công, Tỉnh
uỷ và Uỷ ban kháng chiến hành chính tỉnh chủ
trương tổng động viên nhân tài, vật lực,
với khẩu hiệu “Tất
cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh
thắng”. Tháng 3-1950, tỉnh phát động và xây dựng
“Quỹ chuyển mạnh sang tổng
phản công” được nhân dân hưởng ứng
tích cực, góp phần quan trọng vào việc phát triển
lực lượng vũ trang, xây dựng bộ đội
chủ lực. Nhưng do chính sách động viên không
đúng, nhân dân phải đóng cả tài sản gốc là ruộng
đất, trâu ḅ, quản lư lại lỏng lẻo gây ra mất
mát, bị kẻ xấu lợi dụng, đă ảnh
hưởng không tốt đến sản xuất và đời
sống nhân dân. Tại Đại hội Đảng bộ
tỉnh lần thứ V trong kháng chiến chống Pháp
(3-1952), các đại biểu được học tập
thư của Hồ Chủ tịch về việc Người
phê phán nghiêm khắc những sai lầm trong việc động
viên “Quỹ chuyển mạnh
sang tổng phản công”, Người chỉ rơ: “Những khuyết điểm
đó, cán bộ phải cùng phê b́nh và sửa chữa từ
trên xuống”. Sau Đại hội, các cấp uỷ
Đảng, chính quyền trong tỉnh đă tiến hành tự
phê b́nh trước nhân dân, trả lại nhân dân những
tài sản gốc đă thu và xử lư nghiêm khắc một
số cán bộ tham ô. Để tập trung nhân tài, vật
lực phục vụ chiến trường, tỉnh thực
hiện giảm biên chế hành chính, huy động sức
người vận tải đường bộ,
đường thuỷ. Các Công đoàn đường bộ,
đường thuỷ được bổ sung
phương tiện và nhân lực. Công đoàn vận tải
đường thuỷ có 13 phân đoàn gồm 230 thuyền,
trọng tải mỗi chiếc từ 2 đến 5 tấn.
Vận tải đường bộ có 24 phân đoàn ngựa
thồ 938 con, 4 phân đoàn xe ngựa 118 xe, 3 phân đoàn xe cộ
56 chiếc, 1 phân đoàn xe ô tô 4 chiếc. Nhu cầu vận
tải phục vụ chiến trường ngày càng lớn,
đ̣i hỏi phải huy động toàn bộ thanh niên và
đàn ông mạnh khoẻ từ 18 đến 55 tuổi.
Năm 1950, toàn tỉnh huy động 467.000 ngày công vận
tải tiếp tế chiến trường Khánh Hoà, Đắc
Lắc. Năm 1951, huy động 50.000 người với
650.000 ngày công phục vụ chiến trường.
4. Đẩy
mạnh phong trào chiến tranh du kích, bảo vệ vùng tự
do và đánh bại chiến dịch Át Lăng của địch
(1953-1954).
Bước vào năm
1953, t́nh h́nh có nhiều thuận lợi cho ta, bất lợi
cho địch, quân ta càng đánh càng mạnh, liên tiếp
dành được những thắng lợi lớn với
các chiến thắng ở Hoà B́nh, Tây Bắc, Thượng
Lào, c̣n quân địch liên tiếp thất bại, phải
bị động đối phó trên các chiến trường.
Ở Phú Yên, phong trào chiến tranh du kích phát triển mạnh
thu được nhiều thắng lợi quan trọng.
Mùa hè năm 1953, dân quân du kích và nhân dân các xă miền Tây bao
vây đồn Hai Riêng, bức rút đồn Cà Lúi, Chấn
Đơn, phá tan hệ thống cứ điểm của
địch uy hiếp miền Tây, xây dựng khu B thành
căn cứ địa cách mạng, gồm các xă Phú Mỡ,
Thồ Lồ, vùng đồng bào dân tộc ở Đá Mài,
Bầu Bèng miền Tây Đồng Xuân. Ở vùng ven biển,
phong trào chiến tranh du kích và xây dựng làng chiến đấu
cũng phát triển sôi nổi, đánh thắng nhiều cuộc
đổ bộ càn quét của địch, nỏi bật
là trận Quán Ṣ, xă Xuân Phương, du kích đánh bại cuộc
đổ bộ của hai trung đội địch, diệt
10 tên, số c̣n lại tháo chạy.
Với những thất
bại liên tiếp trên chiến trường, để cứu
văn t́nh thế thực dân Pháp đề ra kế hoạch
quân sự Nava, nhằm chuyển bại thành thắng, kết
thúc chiến tranh trong ṿng 18 tháng. Ở Liên Khu V, địch
quyết định mở chiến dịch Át Lăng để
chiếm toàn bộ vùng tự do của ta. Chiến dịch
Át Lăng là một bộ phận quan trọng của kế
hoạch Nava, được chia làm 3 bước: Bước 1: Sử dụng
22 tiểu đoàn từ Khánh Hoà, Đắc Lắc đánh
chiếm tỉnh Phú Yên trong tháng 1-1954; bước 2: Sau khi chiếm xong Phú Yên, sẽ
tăng thêm lực lượng đánh chiếm Quy Nhơn
và B́nh Định; bước
3: tập trung lực lượng lấy thị xă Quảng
Ngăi làm nơi hợp điểm, hoàn thành mục tiêu chiếm
vùng tự do Liên khu V. Để chuẩn bị cho chiến
dịch Át Lăng, tháng 12-1953, Pháp lần lượt
đưa Binh đoàn cơ động số 10 từ Pháp
sang, điều Binh đoàn 100 từ chiến trường
Nam Triều Tiên về, điều các Binh đoàn số 11,
21 từ B́nh Trị Thiên vào, Nam bộ ra, hợp cùng các Binh
đoàn cơ động 41, 42 và các tiểu đoàn độc
lập tại chỗ, h́nh thành một lực lượng
tập trung gồm 40 tiểu đoàn.
Sáng ngày 20-1-1954, 22 tiểu
đoàn địch, trong đó có 4 binh đoàn cơ động
và 2 tiểu đoàn ngụy mở cuộc tiến công vào
Phú Yên, có cả máy bay, phi pháo yểm trở, nhanh chóng chiếm
Củng Sơn và thị xă Tuy Hoà, từ thị xă Tuy Hà
đánh ra Chí Thạnh. Từ Củng Sơn, một cánh tiến
ra Sơn Định; một cánh khác tiến đến Vân
Hoà xuống An Lĩnh về Chí Thạnh; một cánh tiến
xuống An Xuân, rồi về La Hai. Cánh quân chiếm Chí Thạnh
tiếp tục hành quân ra Sông Cầu, một bộ phận
lên La Hai đánh ra Xuân Lănh và từ La Hai địch nối
với quốc lộ 1 ra Sông Cầu qua đèo Cây Cưa.
Trước sự tấn công ồ ạt của địch,
các lực lượng của ta gồm có Đại đội
377 và 385 cùng dân quân du kích các xă dựa vào các hầm chông, băi
ḿn, làng chiến đấu… chặn đánh quyết liệt.
Đến ngày 30-1-1954, qua 10 ngày đầu chiến đấu,
quân và dân Phú Yên đă loại khỏi ṿng chiến đấu
trên 800 tên địch, làm cho kế hoạch đánh nhanh thắng
nhanh của chúng bị phá sản.
Đầu
tháng 2-1954, Tiểu đoàn 375 của ta đă thọc sâu
đánh vào vùng sau lưng địch ở huyện Đồng
Xuân. Ngày 7-3-1954, Tiểu đoàn 375 cùng dân quân du kích xă An
Định, An nghiệp, Xuân Sơn đánh phục kích
địch ở đoạn qua xóm Bầu Vườn (Xuân
Sơn). Toàn bộ đại đội lính Âu – Phi bị
tiêu diệt và bị bắt sống. Ngày 10-3-1954, hai cánh quân
địch, một từ Sông Cầu vượt đèo Cù
Mông, một từ La Hai theo đường số 6 đánh
ra B́nh Định. Tiểu đoàn 375 cùng bộ đội
địa phương huyện Đồng Xuân và du kích các
xă lợi dụng địa h́nh hiểm trở, phục
kích đánh địch nhiều chặng, phải mất
hai ngày chúng mới hợp quân được tại Diêu
Tŕ. Ngày 17-3-1954, hoà nhịp với tiếng súng tấn công của
bộ đội chủ lực ta vào tập đoàn cứ
điểm Điện Biên Phủ, Tiểu đoàn 375 Phú
Yên lại đánh tập kích vào quân địch đóng tại
đèo Quán Cau, tiêu diệt hơn 150 tên. Tiếp đó, ngày
21-3-1954, một tiểu đoàn địch từ La Hai càn
lên vùng Suối Cối (xă Xuân Phước), nơi địch
cho là có cơ quan đầu năo của 2 tỉnh Phú Yên và
Đắc Lắc. Tiểu đoàn 365 thuộc Trung đoàn
803 được quân khu phái vào, phối hợp với dân
quân địa phương chiến đấu tiêu diệt
gọn Tiểu đoàn Ngự lâm quân số 1. Sau trận
này, lực lượng địch đóng tại Phước
Lănh, Triêm Đức, Xuân Phước, Xuân Sơn rút chạy.
Cũng trong tháng 3-1954, quân và dân Sơn Hoà làm chủ
đường số 7, du kích xă Sơn Phước, Suối
Bạc phối hợp với công binh tỉnh diệt 7 xe
quân sự địch đóng tại Suối Quanh. Cùng với
những thắng lợi to lớn, dồn dập ở
Điện Biên Phủ, Tây Nguyên, Trung Lào, Hạ Lào đă làm
cho kế hoạch tập trung quân cơ động của
địch phục vụ cho chiến dịch Át Lăng
không thể thực hiện được, trái lại quân
cơ động của địch ngày càng bị phân tán.
Tinh thần của chúng hết sức hoang mang, dao động.
Ngày 19-3-1954, Tỉnh uỷ
họp nhận định t́nh h́nh qua hai tháng đánh trả
chiến dịch Át Lăng. Cuối tháng 3-1954, Tỉnh uỷ
và Uỷ ban kháng chiến hành chính tỉnh mở Đại
hội mừng công tại Kỳ Lộ. Đại hội
nêu quyết tâm phát huy thắng lợi, đẩy mạnh
khí thế thi đua giết giặc lập công, đánh bại
chiến dịch Át Lăng. Sau Đại hội mừng
công, hai Tiểu đoàn 365 và 375 tiến về phía Nam, chuẩn
bị những trận đánh mới. Đêm 21-4-1954, Tiểu
đoàn 365 được tăng cường một đại
đội của Tiểu đoàn 375 cùng dân quân du kích, dùng
thuyền bí mật vượt sông Bàn Thạch, tiêu diệt
một tiểu đoàn địch đóng tại Bàn Nham,
Bàn Thạch. Cùng thời gian, du kích xă Hoà Hiệp dùng ḿn
đánh sập cầu Suối Gơ. Trong khi quân dân Phú Yên liên tiếp
tấn công quân địch, th́ ngày 7-5-1954, bộ đội
chủ lực của ta tiêu diệt hoàn toàn tập đoàn
cứ điểm Điện Biên Phủ. Bộ chỉ huy
chiến dịch Át Lăng của địch rút binh
đoàn cơ động số 41 từ Diêu Tŕ quay về
phỏng thủ Tuy Hoà. Từ tháng 5-1954, quân Pháp chỉ c̣n tập
trung ở các cụm lớn như: Tuy B́nh, La Hai, Sông Cầu,
Chí Thạnh và Tuy Hoà. Ngày 28-5-1954, địch rút chạy khỏi
La Hai. Ngày 1-6-1954, ta tấn công tiêu diệt cứ điểm
Tuy B́nh. Ngày 16-6-1954, địch rút chạy khỏi Sông Cầu.
Ngày 19-6-1954, địch ở Chí Thạnh rút chạy về
Tuy Hoà. Thừa lúc quân địch từ các nơi vừa
kéo chạy về Tuy Hoà hỗn loạn, quân ta đồng
loạt tấn công các mục tiêu quan trọng của địch
cả bên trong và bên ngoài thị xă. Đêm 21-6-1954, từ núi
Hùng (An Chấn) kéo dài đến Núi Sầm (Hoà Trị), ta mở
cuộc tấn công địch trên một khu vực dài 10km
và rộng 6km, làm thiệt hại nặng 3 tiểu đoàn
và hàng trăm xe quân sự của chúng. Tại thị xă Tuy
Hoà, ta tiêu diệt gần 1 tiểu đoàn Khinh Quân, phá huỷ
100 xe quân sự. Ngày 25-6-1954, đoàn xe địch gồm 90
chiếc vận chuyển vũ khí, lương thực do 2
đại đội hộ tống lọt vào ổ phục
kích của ta tại Đèo Cả, 79 xe bị bắn cháy,
ta giết và bắt sống 300 tên. Đến tháng 7-1954,
trên chiến trường Phú Yên, địch chỉ c̣n
đóng quân tại thị xă Tuy Hoà chờ ngày bị tiêu diệt.
Trong lúc quân dân Phú Yên đang trên đà chiến thắng, ngày
20-7-1954, Hiệp định Giơnevơ được kư
kết, thực dân Pháp phải thừa nhận nền
độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn
vẹn lănh thổ của Việt Nam. Cuộc kháng chiến
thần kỳ 9 năm chống Pháp của nhân dân ta kết
thúc thắng lợi!
III. Phú Yên kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước (1954-1975).
1. Đấu tranh chống Mỹ-Diệm
sau Hiệp định Giơnevơ (7/1954 đến đầu
năm 1959).
Sau Hiệp định
Giơnevơ (
Trước t́nh h́nh
đó, ngày 29-9-1954, Tỉnh uỷ Phú Yên triệu tập hội
nghị bí mật tại xă An Lĩnh bàn biện pháp đối
phó. Hội nghị chủ trương chuyển hướng
hoạt động với phương châm: “Bí mật, thận trọng, khéo
che dấu, khéo hoạt động, không đấu tranh ồ
ạt, bộc lộ lực lượng”, tổ chức
đưa một số cán bộ sức khoẻ yếu và
bị lộ ra B́nh Định đi tập kết. Đồng
thời, cử các đồng chí Hà Phùng (Dư Huy), Huỳnh
Trợ (Trúc) đi xây dựng căn cứ Tỉnh uỷ ở
Sơn Hoà. Hội nghị cũng phân công đồng chí
Văn Công và đồng chí Bùi Tân xây dựng đường
dây liên lạc giữa tỉnh với Liên khu V.
Cuối tháng 11-1954, theo Chỉ
thị của Khu uỷ khu V, đồng chí Lê Đài và
Văn pḥng Tỉnh uỷ rút ra Diêu Tŕ (B́nh Định). Tại
đây một số cán bộ của tỉnh được
dự cuộc họp 3 ngày do đồng chí Vơ Toán (Vơ Chí
Công), đại diện Khu uỷ phổ biến t́nh h́nh,
nhiệm vụ và phương châm, phương pháp hoạt
động bí mật, đồng thời chỉnh đốn
về mặt tổ chức. Khu uỷ chỉ định
đồng chí Lê Đài, Phó Bí thư Tỉnh uỷ, làm Bí
thư Tỉnh uỷ Phú Yên, thay đồng chí Lê Vụ
được điều động về Khu.
Từ năm 1955, Chính quyền
Ngô Đ́nh Diệm đưa ra quốc sách “tố cộng, diệt cộng”, chúng chọn những
nơi từng có phong trào chống Pháp mạnh làm “tố cộng điển h́nh”.
Trước khi tiến hành, chúng bắt nhân dân viết khẩu
hiệu “tố cộng là an
dân, dung cộng là phản quốc” treo trước cửa.
Nội dung tố cộng của địch là xuyên tạc
chính sách giảm tô thuế, huy động dân công… của ta
trong thời kỳ chống Pháp. Tố xong, chúng bắt xé cờ
Đảng, hô khẩu hiệu chống Đảng. Sau
đó, chúng xếp đảng viên theo từng loại: A hoa
hoặc A thường để thủ tiêu hoặc
đưa đi tù; loại B quản thúc tại chỗ; loại
C dùng thủ đoạn mua chuộc. Chính sách “tố cộng,
diệt cộng” của Ngô Đ́nh Diệm đă gây tổn
thất cho phong trào cách mạng ở Phú Yên rất lớn,
cán bộ đảng viên và quần chúng yêu nước bị
bắt bớ, giam cầm, thủ tiêu, các cơ sở cách mạng
bị vỡ rất nhiều. Phong trào cách mạng trong tỉnh
gặp nhiều khó khăn và thử thách nghiêm trọng.
Để
chống âm mưu “tố cộng, diệt cộng” của
địch, Tỉnh uỷ đề ra chủ
trương đối phó bằng nhiều cách như: viện
lư do đau yếu không đi tố và nếu bị bắt
đi th́ không hô khẩu hiệu, không xé cờ Đảng,
làm ồn ào mất trật tự, hoặc tố những
tên đầu hàng làm tay sai cho giặc. Động viên đảng
viên giữ vững khí tiết cách mạng.
Giữa
lúc phong trào cách mạng trong tỉnh đang gặp nhiều
khó khăn, ngày 23-10-1955, Ngô Đ́nh Diệm bày tṛ tổ chức
“trưng cầu dân ư”, chuẩn bị bầu cử Quốc
hội riêng rẽ. Dưới sự lănh đạo của
Tỉnh uỷ, nhân dân trong tỉnh đă bất chấp sự
khủng bố ác liệt của kẻ thù vùng lên đấu
tranh chống tṛ hề bầu cử Quốc hội của
địch. Một tổn thất của phong trào cách mạng
là ngày 29-12-1955, đồng chí Lê Đài, Bí thư Tỉnh uỷ
bị địch bắt và hy sinh trong nhà tù của bọn
đế quốc. Tháng 5-1956, đồng chí Nguyễn Hồng
Châu được Khu uỷ chỉ định làm Bí
thư Tỉnh uỷ Phú Yên.
Cuối năm 1958, Tỉnh
uỷ chủ trương diệt ác, phá kèm ở đồng
bằng để bảo vệ và phát triển lực
lượng cách mạng. Đây là một chủ
trương mạnh dạn, sáng tạo v́ Trung ương
chưa cho diệt ác, nhưng Tỉnh uỷ thấy t́nh
h́nh không thể để cho kẻ địch tự do
hoành hành mà không bị trừng trị. Tỉnh uỷ chọn
đối tượng phải diệt là tên Nguyễn
Cường có nhiều nợ máu với đồng bào Xuân
Phước. Theo kế hoạch, đêm ngày 15-11-1958, ta diệt
tên thống Cường tại nhà y. Sự kiện này
đă gây nên một không khí phấn khởi cho cán bộ,
đảng viên và nhân dân trong tỉnh. Mặc dù sau đó,
cán bộ và nhân dân Xuân Phước bị khủng bố,
đàn áp dă man, phong trào cách mạng gặp những tổn
thất đáng kể.
Bước sang năm
1959, cách mạng miền Nam nói chung, Phú Yên nói riêng đứng
trước thử thách cực kỳ nghiêm trọng. Ngô
Đ́nh Diệm ban hành Luật 10/59 đặt cộng sản
ra ngoài ṿng pháp luật, lê máy chém đi khắp nơi giết
hại đồng bào ta. Phong trào cách mạng Phú Yên tiếp
tục bị tổn thất nặng nề.
2. Cách mạng
chuyển sang thế đấu tranh vừa chính trị vừa
vũ trang, góp phần đánh bại chiến lược
“Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc
Mỹ (1959-1965).
Tháng 1-1959, Hội nghị
lần thứ 15 của Ban Chấp Trung ương Đảng
họp tại Hà Nội đă xác định con đường
cơ bản của cách mạng miền Nam là: “Lấy sức mạnh của quần
chúng, dựa vào lực lượng chính trị của quần
chúng là chủ yếu, kết hợp với lực lượng
vũ trang để đánh đổ quyền thống trị
của đế quốc và phong kiến, dựng lên chính
quyền cách mạng của nhân dân”. Nghị quyết 15
của Trung ương Đảng đă đáp ứng yêu cầu
của t́nh h́nh và nguyện vọng của nhân dân miền
Đầu tháng 12-1959, Tỉnh
uỷ họp hội nghị tại Suối Heo, xă Bầu
Bèn, huyện Sơn Hoà để quán triệt Chỉ thị
15 của Trung ương. Nghị quyết 15 nhanh chóng
được phổ biến xuống tận cơ sở.
Cơ sở Đảng từng bước được
phục hồi. Tháng 12-1959, đơn vị giải phóng
quân đầu tiên của tỉnh được thành lập.
Trên đà t́nh h́nh phát triển có chiều hướng thuận
lợi, Tháng 9-1960, Đại hội
đại biểu Đảng bộ tỉnh Phú Yên lần
thứ I trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước được triệu tập tại
buôn Ma Hàm (Thồ Lồ). Đại hội đă quán triệt
tinh thần Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng,
đề ra chủ trương biện pháp phát động
phong trào đồng khởi ở đồng bằng, giải
phóng miền Tây, xây dựng căn cứ địa. Tại
Đại hội, đồng chí Mai Dương được
bầu làm Bí thư Tỉnh uỷ.
Sau Đại
hội, lực lượng vũ trang ở miền Tây hoạt
động mạnh, tổ chức đánh nhiều trận,
thu được nhiều thắng lợi. Đến cuối
tháng 11-1960, hầu hết miền Tây được giải
phóng. Miền Tây được giải phóng là cơ sở
để Tỉnh uỷ phát động phong trào nổi dậy
giành chính quyền ở đồng bằng. Vào lúc 19 giờ,
ngày 22-12-1960, nhân dân xă Hoà Thịnh, huyện Tuy Hoà đă nổi
dậy đồng khởi, xoá bỏ chính quyền địch,
thành lập chính quyền cách mạng. Thắng lợi của
phong trào đồng khởi Hoà Thịnh được Khu
uỷ Khu V đánh giá là “điểm mở đầu cho
phong trào giải phóng các tỉnh đồng bằng khu V”.
Phát huy thắng lợi của Hoà Thịnh, ngày 24-12-1960, nhân
dân các xă Hoà Tân, Hoà Mỹ, Hoà Phong nổi dậy truy lùng ác
ôn, tổ chức mít tinh đấu tranh chống địch.
Đêm 26-12-1960, dân vệ xă Hoà Hiệp chống lại bọn
chỉ huy và mang súng theo cách mạng. Ngày 30-12-1960, quần
chúng xă Sơn Long, Sơn Định nổi dậy đốt
trụ sở của địch. Ngày 1-1-1961, tại xă An
Ninh (Tuy An), đội công tác cùng quần chúng truy lùng ác ôn, nổi
lửa đốt trụ sở.
Trong lúc
phong trào cách mạng trong tỉnh đang thu được
nhiều thắng lợi, Trung ương Đảng và Khu
uỷ Khu V giao cho Đảng bộ Phú Yên nhiệm vụ
giải thoát luật sư Nguyễn Hữu Thọ đang
bị địch quản thúc tại Phú Yên. Sau hai lần
đầu giải thoát không thành, lần thứ 3 ta tiến
hành giải thoát Luật sư vào tháng 10-1961. Lần này ta
đưa cơ sở ở Củng Sơn giả đi nhờ
làm đơn kiện để tiếp cận Luật
sư, truyền đạt kế hoạch giải thoát. Vào
chập tối ngày 30-10-1961, tổ công tác của tỉnh
đă đón Luật sư Nguyễn Hữu Thọ tại
chân núi Chóp Chài đưa về căn cứ an toàn. Một
nhiệm vụ đặc biệt đột xuất mà
Trung ương Đảng và Khu uỷ Khu V tin tưởng
giao cho Đảng bộ Phú Yên đă hoàn thành xuất sắc.
Những thắng lợi
của quân và dân Phú Yên trong phong trào giải phóng miền Tây,
đồng khởi Hoà Thịnh… đă góp phần cùng quân
dân cả nước đánh bại chiến lược
“Chiến tranh đơn phương” của Mỹ, buộc
chúng phải thay thế bằng chiến lược chiến
tranh mới: “Chiến tranh đặc biệt”. Ở Phú
Yên, chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”
được mở đầu bằng chiến dịch
“Hải Yến”, tiếp theo là chiến dịch “Dân Thắng”
với một đội quân khổng lồ cùng sự tham
gia của nhiều binh chủng. Sau nhiều ngày càn quét và
xây dựng được một số ấp chiến
lược ở huyện Tuy Hoà 1, địch chuyển
sang đánh Sơn Hoà, Tây Tuy An, Tây Đồng Xuân. Càn quét
đến đâu chúng cũng thực hiện chính sách
“đốt sạch, giết sạch, cướp sạch”
và dồn dân vào các ấp chiến lược. Đến
cuối năm 1963, chúng lập được 250 ấp chiến
lược.
Trước t́nh h́nh
đó, tháng 10-1963, Tỉnh uỷ tổ chức cuộc họp
bất thường, xác định nhiệm vụ trước
mắt là: “Dùng quả đấm
quân sự hỗ trợ cho đấu tranh chính trị, phá ấp
chiến lược đưa dân về làng cũ”. Thực
hiện Nghị quyết của Tỉnh uỷ, bộ
đội tỉnh phối hợp với bộ đội
huyện và dân quân du kích tiến đánh địch khắp
nơi. Tại Tuy An, ta giải phóng xă An Lĩnh, An Nghiệp,
An Thọ. Tại Tuy Hoà 1, ta giải phóng các xă Hoà Mỹ, Hoà
Đồng, Hoà Thịnh, Hoà Tân. Trong năm 1964, lực
lượng vũ trang của ta đánh nhau với địch
nhiều trận lớn, loại khỏi ṿng chiến đấu
3.250 tên địch, thu nhiều vũ khí và phá huỷ nhiều
phương tiện chiến tranh của địch. Kết
hợp với đấu tranh vũ trang, đấu tranh
chính trị, binh vận lên đến cao trào có tính chất
khởi nghĩa ở các huyện Sông Cầu, Tuy Hoà 1, Tuy An
vào những tháng cuối năm 1964. Vùng giải phóng trong tỉnh
ngày càng được mở rộng. Từ miền Bắc
xă hội chủ nghĩa, Trung ương chi viện vũ
khí cho Liên tỉnh III theo đường Hồ Chí Minh trên
biển. Vũng Rô được chọn làm nơi cập
bến. Đêm 23-11-1964, chuyến tàu không số đầu
tiên do đồng chí Hồ Đức Thạnh chỉ huy cập
bến Vũng Rô. Bộ đội, dân công lập tức bốc
dỡ và chuyển hàng trăm tấn vũ khí lên bờ cất
dấu. Tiếp đó các chuyến thứ hai, thứ ba cập
bến an toàn. Chuyến thứ tư cập bến xuống
hàng vào đêm 15-2-1965, nhưng tàu không kịp rời bến
trong đêm. Sáng 16-2-1965, địch t́nh cờ phát hiện,
chúng huy động lực lượng hải quân ở Phú
Yên và không quân ở Nha Trang bao vây đánh phá. Ta tổ chức
đánh trả và cho ḿn đánh ch́m tàu. Sau đó, địch
c̣n cho quân tấn công Vũng Rô nhiều lần nhưng bị
quân ta chặn đánh quyết liệt, bị thiệt hại
nặng, buộc chúng phải chấm dứt càn quét.
Từ
ngày 8 đến ngày 14-1-1965, Đại
hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Phú Yên
lần thứ II trong thời kỳ kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước được tổ chức tại
xóm Bầu, xă Sơn Long, huyện Sơn Hoà, với sự
tham gia của 150 đại biểu, thay mặt cho 1.800
đảng viên trong toàn Đảng bộ về dự
Đại hội. Đại
hội nêu quyết tâm bám đất, bám dân, liên tục tiến
công địch giữ vùng giải phóng. Phát động quần
chúng khởi nghĩa, phá sạch ấp chiến lược,
giải phóng cho được hai phần ba số dân toàn tỉnh,
giành lại hầu hết vùng nông thôn, đồng bằng
và các vùng địch kiểm soát ở miền Tây, phá lỏng
kèm ở các thị trấn, thị xă và giải phóng một
số cứ điểm quận lỵ. Đại hội
đă bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 15
đồng chí. Đồng chí Trần Suyền được
bầu làm Bí thư Tỉnh uỷ ([112]).
Sau Đại hội
Đảng bộ tỉnh, suốt cả năm 1965 quân và
dân Phú Yên liên tục tấn công địch ở khắp
nơi trong tỉnh, giải phóng toàn bộ vùng nông thôn huyện
Tuy Hoà 1, Tuy Hoà 2, phá tan từng mảng lớn ấp chiến
lược, khiến bọn địch không c̣n có khả
năng tổ chức những trận càn lớn lên căn
cứ miền Tây và các vùng giải phóng ở đồng bằng.
Tính đến cuối năm 1965, ta phá 35 ấp chiến
lược trong số 92 ấp c̣n lại, mở rộng
vùng giải phóng từ phía Tây quốc lộ 1 xuống sát
biển. 47/69 xă được hoàn toàn giải phóng,
đưa dân số vùng ta quản lư lên đến 20 vạn
người. Với những thắng lợi đạt
được, quân và dân Phú Yên đă góp phần cùng cả
nước đánh bại chiến lược “Chiến
tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ.
3. Chiến
đấu chống “Chiến tranh cục bộ” (1966-1968).
Để cứu văn sự
sụp đổ hoàn toàn của ngụy quân, ngụy quyền,
đế quốc Mỹ đă ồ ạt đưa quân
vào tham chiến ở miền Nam Việt Nam, thực hiện
chiến lược “chiến tranh cục bộ”. Đầu
tháng 1-1966, quân Mỹ và chư hầu có mặt tại Phú
Yên gồm có 5 tiểu đoàn lính Mỹ, 7 tiểu đoàn
lính Nam Triều Tiên, một tiểu đoàn công binh Úc. Quân ngụy
có Trung đoàn 47, lính bảo an, dân vệ, thám báo, cảnh
sát. Quân Mỹ và chư hầu làm ṇng cốt và chỗ dựa
cho quân ngụy thực hiện âm mưu “t́m diệt” và “b́nh
định”. Từ ngày 1 đến ngày 15-1-1966, hai tiểu
đoàn lính Nam Triều Tiên, ba tiểu đoàn lính Mỹ và
ba tiểu đoàn lính Cộng hoà có sự yểm trợ của
không quân và hải quân mở cuộc tấn công đánh vào
các xă Hoà Xuân, Hoà Hiệp, Hoà Vinh. Cùng thời gian, chúng tập
trung lực lượng lớn càn ra các xă phía
Tháng 3-1966, Tỉnh uỷ
tổ chức Hội nghị bàn kế hoạch thực hiện
chủ trương của Khu V về phương châm 4 chống:
“Chống càn, chống dồn
dân, chống đầu hàng, đầu thú”; đồng
thời giải quyết tư tưởng sợ Mỹ, sợ
gian khổ hy sinh cho cán bộ và chiến sỹ. Mùa hè
năm 1966, ta tổ chức nhiều trận đánh lớn,
tiêu diệt 1.488 tên Mỹ, 11 lính Nam Triều Tiên, 227 lính ngụy,
bắn rơi 30 máy bay, trong đó nổi bật nhất là
trận đánh ở địa đạo G̣ Th́ Thùng (xă An
Xuân), tiêu diệt 378 lính Mỹ, hạ 6 máy bay. Về phía ta
lực lượng chủ lực tổn thất khá nặng:
Tiểu đoàn 7 hy sinh gần hết.
Mặc dù bị thất
bại đau trong mùa khô thứ nhất 1965-1966, nhưng Mỹ
- Ngụy vẫn tiếp tục tập trung binh lực mở
cuộc phản kích chiến lược mùa thứ hai
1966-1967. Với quân số đông, phương tiện
cơ động, từ cuối tháng 1-1966, quân địch
chuyển ra càn quét, đánh phá các huyện phía Bắc của
tỉnh. Ngày 26-10-1966, Lữ đoàn dù 101, Lữ đoàn 1
thuộc Sư đoàn 4 bộ binh mở cuộc hành quân “Ađam” đánh vào căn cứ
Sơn Hoà, Tuy An, Tây Đồng Xuân. Ngày 15-12-1966, chúng chuyển
xuống càn Tuy An, Sơn Long và Tuy Hoà 2. Tháng 3-1967, Sư
đoàn Mănh Hổ cùng với Trung đoàn 47 ngụy mở
trận càn “Đống Đa”, đánh phá ác liệt dài ngày,
thực hiện chính sách “Tam
quang”, xúc dân vùng giải phóng dồn vào ấp chiến
lược. Qua các trận càn trên mà dân số ở vùng
căn cứ từ 70.000 người chỉ c̣n lại
10.000 người. Những nơi mà dân kiên quyết bám trụ
th́ bọn địch dội bom và bắn pháo, rải chất
độc hoá học triệt phá hoa màu, cắt đứt
nguồn sống ḥng làm mất chỗ dựa của cách mạng.
Ngoài việc đánh phá ta bằng quân sự, kinh tế,
chúng c̣n dùng chính sách chiêu hồi, phát triển gián điệp,
bao vây phong toả các cửa khẩu, làm cho một số
cán bộ, đảng viên và quần chúng dao động, bi
quan.
Để tạo thế
đứng chân ở đồng bằng cho lực lượng
vũ trang và chống các cuộc tấn công của địch,
quân ta mở chiến dịch Hè – Thu, với khẩu hiệu:
“Nợ máu phải trả bằng
máu, đánh tan Bạch Mă, phanh thây Mănh Hổ, chôn vùi giặc
Mỹ để trả thù cho đồng bào”. Với
tinh thần và quyết tâm ấy, trong năm 1967, quân ta tổ
chức đánh trên 300 trận lớn nhỏ, đánh vào các
cứ điểm của địch ở Tuy An, Đồng
Xuân, thị xă Tuy Hoà, loại khỏi ṿng chiến đấu
6.000 tên, trong đó, có 468 tên Mỹ, 1.124 tên Nam Triều Tiên,
giải phóng 12 thôn với 47.000 dân. Như vậy, đến
cuối năm 1967, cuộc phản kích mùa khô thứ hai
1966-1967 của Mỹ - ngụy ở Phú Yên cũng như
trên toàn miền
Trên đà thắng lợi,
Hội nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung
ương Đảng (1-1968) chủ trương chuyển
cách mạng miền
Sau Mậu Thân 1968, Mỹ
- ngụy rút bỏ các cứ điểm Núi Hùng, Chóp Vung, G̣
Đá… chuyển về tăng cường cho thị xă, thị
trấn, đánh ra một vùng nông thôn đồng bằng
Tuy Hoà 1, Tuy An. Ra sức giữ trục đường số
6, số 7, tăng cường phi pháo, phục kích các cửa
khẩu, các vùng giáp ranh gây ra cho ta một số khó khăn.
Về phía ta, lực lượng vũ trang thiếu hụt
quân số, vũ khí đạn dược nghiêm trọng.
Vùng giải phóng bị thu hẹp. Để đối phó
với t́nh h́nh mới, ta mở chiến dịch Hè – Thu
1968. Trong chiến dịch Hè - Thu ta đánh địch 256 trận,
loại khỏi ṿng chiến đấu 2.050 tên địch.
Bên cạnh đấu tranh quân sự, đấu tranh chính
trị và binh vận cũng diễn ra sôi nổi nhiều
nơi trong tỉnh thu được nhiều thắng lợi
lớn.
Để tổng kết
phong trào cách mạng trong những năm 1965-1968, từ ngày
5 đến ngày 11-12-1968, Đại
hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Phú Yên
lần thứ III trong thời kỳ kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước được tổ chức tại
khu rừng Ṃ O, xă Phước Tân, huyện Sơn Hoà. Đại
hội đánh giá phong trào cách mạng ở Phú Yên từ
năm 1965 đến 1968, rút ra những bài học kinh nghiệm
trong công tác xây dựng Đảng, xây dựng lập
trường tiến công địch, chỉ đạo
công tác bám dân, phối hợp 3 mũi giáp công, tăng cường
đoàn kết nội bộ và công tác tư tưởng.
Đại hội đă bầu Ban Chấp hành Đảng
bộ tỉnh gồm 23 đồng chí, do đồng chí Trần
Suyền làm Bí thư Tỉnh uỷ.
4. Chiến đấu chống
chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”, giải
phóng hoàn toàn tỉnh Phú Yên (1969-1975).
Sau khi chiến lược
“chiến tranh cục bộ” bị thất bại nặng
nề, Mỹ thực hiện chiến lược “Việt
Nam hoá chiến tranh”, một mặt rút dần quân Mỹ về
nước để lừa bịp dư luận, mặt
khác chúng tăng cường vũ khí và trang bị cho quân ngụy
tiếp tục chiến tranh ở Việt Nam, thực hiện
âm mưu “dùng người Việt đánh người Việt”.
Tại Phú Yên, địch tập trung một lực lượng
quân sự lớn gồm có quân Mỹ, chư hầu và quân
ngụy cùng các lực lượng gián điệp Phượng
Hoàng, Thiên Nga với biệt danh Thu Hà, Đỗ Bá Thể.
Ngoài ra chúng tổ chức các lực lượng Tam giác chiến,
phân đội nhỏ biệt kích, cảnh sát dă chiến, lực
lượng gián điệp tại chỗ. Kết hợp
với chi cục cảnh sát xă bắt người, thả
người cài cấy, ghi danh sách, lập thủ đoạn
ly gián, mở chiến dịch về làng, chốt chặn
các hành lang, ngăn cách vùng này với vùng khác. Địch c̣n
tạo ra các vành đai trắng, xúc dân vào sống ven vùng quận
lỵ. Thực hiện kế hoạch “quét và giữ” theo nhiều cách như: b́nh định
cấp tốc, b́nh định đặc biệt. Tập
trung quân Mỹ và quân Nam Triều Tiên mở những trận
càn hỗn hợp nhằm quét sạch từng vùng. Chúng cho Lữ
đoàn dù 173 càn sâu vào vùng căn cứ Sơn Hoà, Lực
lượng Nam Triều Tiên, quân ngụy càn đánh Sơn
Long, Sơn Định, An Lĩnh, vùng ven núi Tuy Hoà 2. Ban ngày
cho máy bay phản lực ném bom, ban đêm bắn các loại
pháo vào những vùng nghi ngờ là có Việt cộng. Mỹ
- ngụy đă đẩy cuộc chiến tranh trở nên
ác liệt chưa từng có. Với những cuộc càn
quét liên tiếp của địch, quân và dân Phú Yên phải
trải qua những ngày tháng vô cùng khó khăn, lực lượng
du kích, đặc công, tổ chức Đảng ở tỉnh,
huyện… bị tổn thất khá nặng.
Tháng 10-1969, sau khi tiếp
thu Nghị quyết của Khu uỷ Khu V về công tác giành
dân, giữ dân, xây dựng lực lượng cách mạng,
tỉnh đă mở các đợt học tập, tuyên truyền
và phổ biến tinh thần Nghị quyết cho cán bộ
và nhân dân vùng căn cứ, vùng tranh chấp, chỉ rơ nhiệm
vụ của cách mạng là “Đánh
cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”. Sau đợt học
tập, có hơn 2.000 nam nữ thanh niên tham gia vào các đội
công tác, du kích xă, du kích mật; 1.800 thanh niên thoát ly lên vùng
căn cứ. Trên cơ sở đó, ở tỉnh ta thành lập
những đội pháo thủ nữ, ở huyện thành lập
khẩu đội cối. Trong năm 1970, toàn tỉnh có 21
vạn lượt quần chúng nổi dậy đấu
tranh phá ấp chiến lược và đấu tranh chính trị,
ta đă vận động làm tan ră trên 2 vạn tên địch,
trong số này có 7.000 bảo an, 1.300 cảnh sát cuộc và
chi cuộc, 6.500 tề ngụy ra đầu thú chịu
đi cải tạo, 5.000 tên khác bị ta đưa ra
căn cứ cải tạo giáo dục. Trên mặt trận
quân sự, lực lượng du kích tự vệ đă tác
chiến 280 trận, diệt 2.044 tên, bộ đội chủ
lực tỉnh đánh 1.562 trận lớn nhỏ, loại
khỏi ṿng chiến đấu 11.489 tên địch. Phá ră
hoàn toàn lực lượng pḥng vệ dân sự ở 17 xă
và 57 thôn, phá banh 30 khu dồn đưa 1 vạn rưỡi
dân về làng cũ làm ăn, 13 vạn dân dành quyền làm chủ,
thu hẹp khu vực kiểm soát của địch.
Giữa lúc phong trào cách mạng
đang lên, từ ngày 29-9 đến ngày 4-10-1971, Đại hội đại biểu
Đảng bộ tỉnh Phú Yên lần thứ IV trong thời
kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
được triệu tập tại khu rừng Bốn
Chống thuộc xă Phước Tân, huyện Sơn Hoà với
sự tham gia của 79 đại biểu chính thức. Sau
khi phân tích t́nh h́nh, Đại hội vạch rơ: Thời gian sắp tới là hết
sức quan trọng, cần phải có những bước
đột phá lớn để làm thay đổi so sánh lực
lượng giữa ta và địch. Muốn vậy, ta
không chỉ nhằm đúng thời cơ mà phải khẩn
trương chủ động tạo điều kiện
cho thời cơ trực tiếp chín muồi. Đại
hội đă bầu Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh
gồm 21 uỷ viên chính thức và 4 uỷ viên dự khuyết.
Đồng chí Trần Suyền được bầu làm
Bí thư Tỉnh uỷ.
Từ năm 1972,
được sự chi viện của Mỹ, bọn ngụy
xây dựng lại Liên đoàn bảo an, các Đại đội
độc lập, tổ chức một số trận càn
vào các căn cứ của ta ở Sông Cầu, Tuy Hoà và Tuy
An, gây cho ta một số thiệt hại. Để đối
phó lại ta mở hàng loạt cuộc tấn công vào các cứ
điểm của quân địch ở khắp nơi
trong tỉnh. Qua một năm chiến đấu, quân ta
đánh 1.180 trận lớn nhỏ, loại khỏi ṿng chiến
đấu 9.312 tên địch, giải phóng một số
nơi ở Sông Cầu, Tuy An, Tuy Hoà 1, Tuy Hoà 2, thị xă Tuy
Hoà. Với những thắng lợi chiến lược của
quân dân cả nước trong năm 1972, ngày 27-1-1973, đế
quốc Mỹ buộc phải kư Hiệp định Pari về
Việt Nam, chấm dứt chiến tranh, rút quân Mỹ và
chư hầu về nước. Ở Phú Yên, đến
ngày 12-2-1973, quân Mỹ và quân chư hầu rút hết, quân ngụy
tiếp quản các căn cứ quân sự và phương
tiện chiến tranh do Mỹ và Nam Triều Tiên để
lại.
Mặc dù Hiệp định
Pari đă được kư kết, nhưng Mỹ - Thiệu
vẫn ra sức phát triển quân đội, tăng cường
trang bị quân sự, tập trung lực lượng lấn
chiếm các vùng giải phóng, đánh phá các cửa khẩu
mua bán, kiểm soát bao vây kinh tế. Mặt khác, chúng rải
quân chiếm giữ đường số 7 và ra sức củng
cố bộ máy tề xă. Chỉ riêng trong tháng 1-1973, địch
tổ chức 449 đợt càn quét vào vùng ta kiểm soát gây
cho ta nhiều thiệt hại. Trước t́nh h́nh đó,
ta tập trung lực lượng tấn công địch
để giành lại những vùng làm chủ, vùng tranh chấp
bị địch lấn chiếm. Ở vùng địch kiểm
soát, ta vận động nhân dân đấu tranh đ̣i thi
hành Hiệp định Pari, đ̣i quyền tự do dân chủ.
Ở vùng bị địch lấn chiếm, ta đề
ra nhiệm vụ chống lấn chiếm, chống b́nh
định. Việc chống lấn chiếm mặc dù diễn
ra ác liệt nhưng dân không chạy dạt như trước,
mà c̣n về lại thôn ấp làm cho vành đai trắng ngày
càng giảm.
Để đánh giá t́nh
h́nh từ sau Hiệp định Pari, đồng thời
quán triệt Nghị quyết 21 (7-1973) của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng, từ ngày 20 đến ngày
27-9-1973, Đại hội
đại biểu Đảng bộ tỉnh Phú Yên lần
thứ V trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước được tổ chức tại Hội
trường Mùa Xuân, xă Sơn Long, huyện Sơn Hoà. Đại
hội đă nêu nhiệm vụ cho toàn Đảng bộ
là: “Ra sức đánh bại các
cuộc càn quét lấn chiếm, các cuộc b́nh định
của địch và giành quyền chủ động, mở
rộng quyền làm chủ, phát triển lực lượng
nhất là ở cơ sở, bảo đảm việc
giành dân và giữ dân”. Đại hội đă bầu Ban
Chấp hành Đảng bộ gồm 25 đồng chí.
Đồng chí Nguyễn Duy Luân (Chín Cao) được bầu
làm Bí thư Tỉnh uỷ. Tiếp đó, từ ngày 3 đến
ngày 5-6-1974, tỉnh mở Đại hội chính trị gồm
đại biểu các ngành, giới và đại biểu
các huyện để bầu Uỷ ban nhân dân cách mạng tỉnh
lần 2, gồm 11 thành viên do đồng chí Nguyễn Duy
Luân làm Chủ tịch.
Thực hiện Nghị
quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh, trong
năm 1974, quân dân Phú Yên tổ chức đánh 336 trận,
tiêu diệt 1.296 tên địch, khôi phục vùng làm chủ,
vùng tranh chấp, đưa chiến trường các huyện
Sông Cầu, Đồng Xuân, Tuy An trở về trạng
thái như trước ngày 28-1-1973, tức là đánh bật
địch ra khỏi vùng lấn chiếm sau Hiệp định
Pari. Do vậy, tinh thần của bọn ngụy quân, ngụy
quyền sa sút mạnh, mâu thuẫn nội bộ địch
trở nên gay gắt.
Từ ngày 18-12-1974 đến
ngày 8-1-1975, Bộ Chính trị họp, phân tích thời cơ
chiến lược và hạ quyết tâm giải phóng hoàn
toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Quán triệt
tinh thần của Bộ Chính trị, từ ngày 25 đến
ngày 27-2-1975, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ họp và
đề ra chủ trương: “Động viên sự nỗ lực cao nhất của
toàn Đảng bộ, khắc phục mọi khó khăn,
giành thắng lợi lớn nhất trong năm 1975, nhằm
góp phần với toàn miền Nam hoàn thành cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân trong một thời gian ngắn”.
Trong lúc toàn Đảng bộ,
toàn quân, toàn dân trong tỉnh đang sôi nổi chuẩn bị
cho cuộc chiến đấu cuối cùng, th́ ngày 12-3-1975,
Quân Khu V có lệnh bổ sung: “Phú Yên tranh thủ thời
cơ chung trên chiến trường để giải phóng
toàn bộ nông thôn đồng bằng, ép địch sát thị
xă”. Thừa lệnh của Quân Khu V, khi bộ đội chủ
lực của ta tiến công vào Buôn Ma Thuột (10-3-1975), th́
Phú Yên mở màn chiến dịch bằng một loạt trận
tiến công vào các cứ điểm của địch ở
các huyện Đồng Xuân, Sông Cầu, Tuy An, tiêu diệt
nhiều sinh lực địch và giải phóng được
một số thôn xă. Cùng lúc đó, các huyện Miền Tây,
Sơn Hoà, Tây Nam cùng hiệp đồng đánh địch
giải phóng được một số thôn, buôn. Ngày
17-3-1975, ta nổ súng tấn công địch ở chiến
trường trọng điểm Tuy Hoà và nhanh chóng tiêu diệt
được cứ điểm Núi Tranh, giải phóng 2 xă
Hoà Định, Hoà Quang và một phần xă Hoà Thắng.
Trên chiến trường
Tây Nguyên, sau nhiều lần phản kích chiếm lại thị
xă Buôn Ma Thuột bị thất bại, ngày 14-3-1975, địch
quyết định bỏ Tây Nguyên rút về trấn thủ
đồng bằng. Tại Phú Yên, chúng quyết định
rút chạy theo đường số 5 xuống đồng
bằng Tuy Hoà về Phú Lâm.
Sáng ngày
Ngày 26-3-1975, Tỉnh uỷ
nhận được điện của A15 (Khu uỷ Khu
V) với nội dung: “Nhanh chóng
chuyển toàn bộ lực lượng vào đánh chiếm
thị xă Tuy Hoà, bàn với chủ lực cho một bộ
phận cùng đánh vào. Hoàn thành xong thị xă, chuyển lực
lượng ra giải quyết phía Bắc cùng với chủ
lực”. Ngày 28-3-1975, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ,
Sở Chỉ huy tiền phương cùng với Bộ
Tư lệnh sư đoàn 320 gặp nhau, vạch kế hoạch
tấn công vào thị xă Tuy Hoà. Lực lượng tấn
công vào thị xă Tuy Hoà gồm 3 trung đoàn của Sư 320
có xe tăng, pháo và Bộ đội địa
phương tỉnh, huyện.
5 giờ sáng ngày 1-4-1975,
Trung đoàn 2 nổ súng tấn công vào trận địa
pháo của địch ở núi Nhạn, cùng lúc xe tăng ta
xuất kích chiếm lĩnh cầu Ông Chừ, rồi phát
triển theo đường Trần Hưng Đạo,
đánh thẳng xuống phía Nam Tỉnh đường ngụy.
Ở phía Bắc thị xă , Trung đoàn 1 đánh chiếm
sân bay Chóp Chài, sau đó phát triển theo đường Nguyễn
Huệ chiếm Ty cảnh sát, Trung đoàn 47 và Tỉnh
đường ngụy. Ở phía Tây Bắc, bộ đội
tỉnh đánh chiếm Long Tường, xóm Lẫm, Quy Hậu,
Phước Khánh. Ở huyện Tuy Hoà 1, Trung đoàn 3 đặt
pháo tại Lạc Nghiệp bắn vào quận lỵ Phú
Lâm, một cánh quân khác của ta chiếm giữ khu vực
Đông Mỹ, Cầu Phú Khê, Thạch Tuân. Bộ đội
tỉnh đánh chiếm Phú Hiệp không cho địch chạy
ra biển.
9 giờ 30 phút ngày
Đúng 10 giờ ngày
30 năm qua (1975-2005),
dưới sự lănh đạo của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng, Đảng bộ, quân và dân tỉnh
Phú Yên phát huy truyền thống anh hùng, đoàn kết,
năng động và sáng tạo trong chiến tranh chống
Mỹ, cứu nước, vượt qua các khó khăn, thử
thách đă giành được những thành tựu quan trọng
trên tất cả các lĩnh vực kinh tế - xă hội,
an ninh quốc pḥng, góp phần xứng đáng vào những
thành tựu chung của toàn Đảng và nhân dân cả
nước.
I. Phú Yên từ
sau ngày giải phóng đến ngày hợp nhất với tỉnh
Khánh Hoà thành tỉnh Phú Khánh (1/4 - 3/11/1975).
Ngày
Để ổn định
t́nh h́nh, Tỉnh uỷ yêu cầu Uỷ ban quân quản phải
quán triệt, nắm vững và vận dụng sáng tạo
tư tưởng chỉ đạo của Đảng
đối với các đối tượng quần chúng
trong vùng mới giải phóng, trong đó lưu ư số ngụy
quân, ngụy quyền mới ra tŕnh diện để tránh
xảy ra những hiểu lầm về chủ
trương, chính sách của chính quyền cách mạng.
Đối với đồng bào từ các khu dồn mới
trở về phải cố gắng không được
để một ai thiếu đói, nhanh chóng ổn định
đời sống và sản xuất cho họ. Mặt khác,
chuẩn bị thật tốt khâu hậu cần phục vụ
các đoàn quân giải phóng.
Với sự quyết
tâm của toàn Đảng bộ, toàn quân, toàn dân trong tỉnh,
cùng với sự chi viện của cấp trên, từ ngày
giải phóng đến khi thực hiện quyết định
của Bộ Chính trị hợp nhất với tỉnh
Khánh Hoà (3-11-1975) thành tỉnh Phú Khánh, về cơ bản ta
ổn định được một số t́nh h́nh và
làm tṛn nhiệm vụ cung cấp hậu cần cho các
đoàn quân giải phóng. Về nhiệm vụ cung cấp hậu
cần, tỉnh tổ chức các trạm đón tiếp
các binh đoàn ở đèo Cù Mông trên tuyến quốc lộ
1A và Mục Thịnh, La Hai ở phía Tây. Đồng thời,
chuẩn bị các điểm cung cấp lương thực
cho bộ đội chủ lực ở xă Xuân Thọ huyện
Sông Cầu; xă An Hoà, An Mỹ huyện Tuy An; xă Hoà Vinh, Hoà
Xuân huyện Tuy Hoà và lập hai trạm sửa chữa ô tô
đặt tại thị xă Tuy Hoà và thị trấn Phú Lâm.
Ngoài ra, tỉnh c̣n quyết định lập 7 trạm
theo trục quốc lộ 1A, mỗi trạm có cán bộ,
nhân viên của các ngành, đoàn thể như: Y tế, Tài
chính, Thương nghiệp, Vật tư, Lương thực,
Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, cùng một số quần
chúng để hỗ trợ và động viên cổ vũ
cuộc hành quân của các binh đoàn chủ lực, góp phần
vào chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải
phóng Sài G̣n, thống nhất Tổ quốc.
Nhằm giải quyết
khó khăn về lương thực, tỉnh phát động
phong trào khai hoang phục hoá, mở rộng diện tích sản
xuất, ngoài trồng lúa, chú ư trồng thêm các loại cây
hoa màu ngắn ngày. Cùng với việc đẩy mạnh sản
xuất, trong tỉnh c̣n dấy lên phong trào nhường
cơm xẻ áo, “lá lành đùm lá rách” giúp nhân dân ở các khu
dồn mới trở về. Nhờ vậy, bước
đầu giải quyết được t́nh h́nh thiếu
đói, góp phần quan trọng ổn định đời
sống nhân dân. Về giáo dục, hệ thống trường
lớp của các cấp học phổ thông được
sắp xếp lại, chuẩn bị cho năm học
1975-1976. Số giáo viên lưu dung có 1.749 người trong
đó có 1.416 giáo viên được bố trí bồi dưỡng
chương tŕnh nghiệp vụ sư phạm của chính
quyền cách mạng. Hệ thống y tế cũng
được sắp xếp lại, bổ sung thêm một
số cán bộ, nhân viên, bước đầu làm giảm
sức ép về nhu cầu khám chữa bệnh cho nhân dân.
Để
đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xă hội,
quốc pḥng – an ninh trong thời kỳ mới, ngày 29-9-1975,
Bộ Chính trị Trung ương Đảng (khoá III) ra Nghị
quyết số 245-NQ/TW về việc bỏ cấp khu và hợp
nhất một số tỉnh ở miền Nam. Thực
hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị, ngày 3-11-1975, hai tỉnh Phú Yên và
Khành Hoà được hợp nhất lấy tên là tỉnh
Phú Khánh. Theo sự chỉ đạo của Ban Bí
thư Trung ương Đảng, Ban Chấp hành Đảng
bộ lâm thời Phú Khánh được thành lập trên
cơ sở Ban Chấp hành Đảng bộ hai tỉnh
Phú Yên và Khánh Hoà, do đồng chí Nguyễn Xuân Hữu làm Bí
thư Tỉnh uỷ. Ngày 29-10-1975, Uỷ ban nhân dân cách mạng
Khu Trung Trung bộ ra quyết định thành lập Uỷ
ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh Phú Khánh, do đồng
chí Mai Dương làm Chủ tịch.
II. Phú Yên
trong thời kỳ hợp nhất với tỉnh Khánh Hoà
thành tỉnh Phú Khánh (3/11/1975 – 1/7/1989).
1. Khắc phục hậu quả chiến
tranh, cải tạo xă hội chủ nghĩa và xây dựng
chủ nghĩa xă hội (11/1975 – 1980).
Hội nghị lần thứ
nhất Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Phú Khánh họp
từ ngày 20-10 đến ngày 3-11-1975 đă đề ra
phương hướng và nhiệm vụ cách mạng trong
giai đoạn mới: “Phát huy
thắng lợi sự nghiệp giải phóng miền Nam, nắm
vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập
thể của nhân dân lao động, động viên một
cao trào cách mạng sôi nổi của quần chúng, trấn
áp bọn phản cách mạng, giữ vững an ninh chính trị
và trật tự an toàn xă hội. Ra sức xây dựng và củng
cố hệ thống chuyên chính cách mạng nhất là ở
cơ sở, tăng cường đoàn kết toàn dân,
đẩy mạnh và khôi phục kinh tế toàn diện, giữ
vững và cải thiện đời sống nhân dân,
trước mắt tập trung đẩy mạnh sản
xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, khôi phục
và phát triển các ngành nghề thủ công, công nghiệp chế
biến và các cơ sở công nghiệp sẵn có, tích cực
giải quyết nạn thất nghiệp, quét sạch tàn
dư về chính trị, kinh tế, văn hoá, xă hội nô
dịch và phản động, xây dựng văn hoá xă hội
lành mạnh…”. “Nhiệm vụ
trung tâm là ra sức khôi phục và phát triển kinh tế, giữ
vững và cải thiện đời sống nhân dân”.
Thực
hiện Nghị quyết của Đảng bộ Phú Khánh,
trong năm 1976, nhân dân các huyện, thị trên địa
bàn Bắc Phú Khánh đẩy mạnh phong trào làm thuỷ lợi,
thâm canh tăng vụ, khai hoang phục hoá, mở rộng diện
tích. Đến cuối năm 1976, đă khai hoang được
3.619 ha, đưa diện tích gieo trồng lên hơn 50 ngàn
ha, riêng diện tích gieo trồng lúa đạt 46.353 ha, tổng
sản lượng quy thóc đạt 139.469 tấn, tăng
hơn 434,2% so với năm 1975. Thắng lợi trên lĩnh
vực sản xuất nông nghiệp, bước đầu
giải quyết được khó khăn về
lương thực, góp phần quan trọng làm cho t́nh h́nh
các mặt trong tỉnh ổn định. Cùng với nông
nghiệp, các cơ sở khai thác đá chẻ, gạch ngói
xây dựng, sản xuất đường, muối… cũng
được khôi phục. Hệ thống giáo dục phổ
thông được mở rộng thêm, hệ mẫu giáo
phát triển, tất cả các huyện và một số xă lớn
đă có trường bổ túc văn hoá. Mạng lưới
y tế cũng có bước phát triển, có 62 cơ sở
khám chữa bệnh, kịp thời dập tắt các dịch
bệnh. Về hoạt động thông tin văn hoá, tập
trung tuyên truyền chủ trương, đường lối,
chính sách của Đảng đến với nhân dân, giải
quyết một bước ảnh hưởng văn hoá
nô dịch, đồi trụy của chế độ cũ
để lại. An ninh chính trị và trật tự an toàn
xă hội được giữ vững và ngày càng ổn
định.
Từ ngày 21 đến
26-3-1977, Đại hội đại biểu Đảng bộ
tỉnh Phú Khánh lần thứ nhất (ṿng 2) diễn ra tại
thành phố Nha Trang. Trên cơ sở phân tích t́nh h́nh mọi
mặt của tỉnh, Đại hội thông qua
phương hướng và các mục tiêu lớn của kế
hoạch 5 năm (1976-1980), trong đó nhấn mạnh nhiệm
vụ trung tâm của thời kỳ quá độ là: “Khẩn trương thực hiện
cải tạo xă hội chủ nghĩa và xây dựng chủ
nghĩa xă hội… Tăng cường quản lư kinh tế,
đẩy mạnh sản xuất lương thực, thực
phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, ổn định
thị trường và giá cả, phát triển văn hoá, y tế,
giáo dục”. Đại hội bầu Ban Chấp hành
Đảng bộ gồm 37 uỷ viên chính thức và 2 uỷ
viên dự khuyết, đồng chí Nguyễn Xuân Hữu
được bầu làm Bí thư Tỉnh uỷ.
Để
triển khai thực hiện Nghị quyết của Đại
hội Đảng bộ, Chỉ thị số 27-TU/CT
(1-8-1977) của Tỉnh uỷ quyết định: “Tiến hành đợt 1, thí
điểm cuộc vận động cải tạo quan hệ
sản xuất trong nông nghiệp, xây dựng hợp tác xă sản
xuất nông nghiệp, tổ chức lại sản xuất,
lấy xă Hoà B́nh và huyện Tuy Hoà làm nơi thí điểm của
tỉnh”. Được sự quan tâm của Tỉnh uỷ
và sự giúp đỡ nhiệt t́nh của đoàn cán bộ
Nghệ Tĩnh, đến cuối tháng 11-1977, Hợp tác xă
Hoà B́nh có 99,40% hộ nông dân cùng với tư liệu sản
xuất tham gia và không có hộ nào xin ra khỏi hợp tác
xă. Từ thành công bước đầu, năm 1978, tỉnh
đẩy mạnh phong trào làm ăn tập thể lên một
bước, trên địa bàn Bắc Phú Khánh, các huyện
Tuy Hoà, Đồng Xuân, Tuy An, Tây Sơn căn bản hoàn
thành tổ chức Tập đoàn sản xuất. Để
nhanh chóng tiến lên sản xuất lớn xă hội chủ
nghĩa, Tỉnh uỷ Phú Khánh chủ trương: “Tập trung sức đẩy mạnh
xây dựng hợp tác xă sản xuất nông nghiệp,
đưa lên thành cao trào, cơ bản hoàn thành hợp tác
hoá trong năm 1979”. Tính đến tháng 10-1979, các huyện
Tuy Hoà, Tuy An và thị xă Tuy Hoà xây dựng xong các hợp tác
xă sản xuất nông nghiệp.
Bên cạnh việc tập
trung chỉ đạo đẩy mạnh hợp tác hoá nông
nghiệp, tỉnh cũng chú trọng đẩy mạnh sản
xuất nông nghiệp. Trên địa bàn Bắc Phú Khánh,
năm 1978, sản lượng lương thực quy thóc
tính theo đầu người đạt 283,5 kg/người/năm,
đóng góp cho nhà nước 26.994 tấn. Ngoài ra các loại
cây công nghiệp ngắn ngày như đậu, lạc, vừng,
bông và nhất là cây mía có sự phát triển tương
đối khá. Diện tích cây mía năm 1978 đạt 2.871
ha, năng suất b́nh quân đạt 412,6 tạ/ha. Chăn
nuôi cũng phát triển thêm một bước, năm 1979,
đàn trâu có 1.866 con, đàn ḅ 74.528 con, đàn lợn 74.190
con.
Kết quả bước
đầu về cải tạo nông nghiệp và sản xuất
nông nghiệp trong hơn 2 năm 1977-1979 có ư nghĩa quan trọng,
tạo cơ sở bước đầu cho các hoạt
động khác. Tuy vậy c̣n có nhiều hạn chế
như: năng suất cả năm tăng chậm, tổng
sản lượng c̣n thấp, chưa có lương thực
dự trữ. Về cải tạo xă hội chủ nghĩa,
có một số hợp tác xă bắt ép quần chúng tham gia
và xuất hiện một số mặt tiêu cực như
tham ô, ức hiếp quần chúng; tŕnh độ quản
lư, cơ sở vật chất kỹ thuật trong các hợp
tác xă c̣n thấp kém.
Cải tạo xă hội
chủ nghĩa đối với công thương nghiệp
tư doanh là một trong những nhiệm vụ trọng
tâm của toàn Đảng bộ và nhân dân trong giai đoạn
cách mạng mới. Ngày 20-4-1977, Tỉnh uỷ Phú Khánh ra Nghị
quyết xác định: “Trong
hai năm 1977 – 1978 hoàn thành về cơ bản nhiệm vụ
cải tạo xă hội chủ nghĩa đối với
công thương nghiệp tư doanh, trước hết là
xoá bỏ công thương nghiệp tư bản chủ nghĩa;
đồng thời tổ chức lại các ngành, nghề
quan trọng trong tiểu công nghiệp, sắp xếp và
chuyển phần lớn tiểu thương sang sản xuất”.
Trong năm 1977, t́nh h́nh cải tạo chuyển biến chậm,
chỉ mới cải tạo được một bước
trong lĩnh vực giao thông vận tải và hoàn thành cơ
bản cải tạo khách sạn, quán trọ. Năm 1978, về
căn bản đă xoá bỏ tư sản thương nghiệp,
chuyển nhiều hộ tư sản trung và tiểu
thương sang sản xuất. Xây dựng được
một số cơ sở mậu dịch quốc doanh, hợp
tác xă mua bán, hợp tác xă công nghiệp. Riêng thị xă Tuy Hoà,
đă xây dựng và tổ chức được 62 cơ sở
sản xuất tập thể, trong đó có 15 hợp tác xă
sản xuất công nghiệp, thu hút 3.542 lao động. Xoá
bỏ hoàn toàn các hiệu thuốc tư nhân. Ngoài ra, các ngành
văn hoá, giao thông vận tải, nhà đất đều
được cải tạo bước đầu bằng
các h́nh thức quốc doanh và công tư hợp doanh. Đến
tháng 10-1979, công cuộc cải tạo công thương nghiệp
tư doanh về cơ bản hoàn thành, h́nh thành được
mạng lưới kinh tế - kỹ thuật bao gồm
các cơ sở công nghiệp cơ khí, hợp tác xă cơ
khí, tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp, giao thông vận
tải.
Qua hơn
hai năm (1977-1979) tiến hành cải tạo, tổ chức
lại một bước các thành phần cá thể, giai cấp
công nhân và nhân nhân dân lao động làm thuê trở thành những
người làm chủ tập thể. Tuy vậy, trong cải
tạo công thương nghiệp do chưa chuẩn bị
được đầy đủ các yếu tố, nhất
là đội ngũ cán bộ quản lư, chưa kết hợp
chặt chẽ giữa cải tạo với xây dựng, cải
tạo là chủ yếu, vận dụng các chính sách kinh tế
trong thời kỳ quá độ chưa tốt, nóng vội,
đi ngược lại chủ trương của Hội
nghị Trung ương lần thứ 24 (khoá III), tháng
9-1975: “Trong một thời gian
nhất định ở miền Nam c̣n nhiều thành phần
kinh tế: kinh tế quốc doanh xă hội chủ nghĩa,
kinh tế hợp doanh nửa xă hội chủ nghĩa, kinh
tế cá thể, kinh tế tư bản tư doanh; cần
ra sức sử dụng mọi khả năng lao động,
kỹ thuật, tiền vốn, kinh nghiệm quản lư
để đẩy mạnh sản xuất”([113]).
Do đó, sau cải tạo, công nghiệp phát triển sa sút,
thị trường nghèo nàn, thương mại dịch vụ
không đảm đương được yêu cầu phục
vụ nhân dân. Mặt khác các thành phần kinh tế ngoài quốc
doanh hoạt động có hiệu quả nhưng không
được thừa nhận, thể hiện sự nhận
thức về quy luật giá trị, về kinh tế thị
trường không theo kịp sự phát triển của t́nh
h́nh.
Từ ngày 12 đến
ngày 19-10-1979, Đại hội đại biểu Đảng
bộ tỉnh Phú Khánh lần thứ II được tiến
hành tại thành phố Nha Trang. Đại hội đă
thông qua nhiệm vụ và giải pháp phát triển kinh tế
- xă hội giai đoạn 1980-1985. Đại hội bầu
Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 43 uỷ viên chính
thức và 2 uỷ viên dự khuyết. Đồng chí Nguyễn
Xuân Hữu, Uỷ viên Trung ương Đảng được
bầu lại làm Bí thư Tỉnh uỷ.
Sau Đại hội,
toàn tỉnh đi vào củng cố và xác định lại
quy mô hợp tác xă cho phù hợp với tŕnh độ quản
lư, lao động và tài nguyên. Ngày 31-12-1979, Ban Thường vụ
Tỉnh uỷ họp quyết định: “Toàn Đảng bộ phải khẩn
trương và tập trung sức vào củng cố hợp
tác xă và tập đoàn sản xuất nông nghiệp, coi
đây là một công tác trung tâm của của năm 1980 và
là cái trục của việc xây dựng nông thôn mới của
tỉnh”. Thực hiện quyết định của
Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, các huyện, thị
trên địa bàn Bắc Phú Khánh tiến hành chia lại các
hợp tác xă quy mô lớn, chuyển các hợp tác xă yếu
thành các tập đoàn sản xuất. Đến cuối
năm 1980, toàn địa bàn Bắc Phú Khánh có 124 hợp tác
xă, thu hút gần 90% số hộ gia đ́nh và hơn 90% số
trâu, ḅ kéo cày và tư liệu sản xuất tham gia hợp
tác xă. Riêng huyện trọng điểm lúa Tuy Hoà, Tuy An có
98% số hộ và tư liệu sản xuất vào hợp
tác xă. Đi đôi với củng cố hợp tác xă, việc
củng cố các tập đoàn sản xuất cũng có sự
tiến bộ, nhưng các tập đoàn sản xuất yếu,
kém c̣n chiếm hơn 60%, các tập đoàn sản xuất
khá chỉ chiếm 6%. Kết quả công tác củng cố,
cải tạo quan hệ sản xuất trong nông nghiệp
tạo điều kiện thuận lợi phát động
các phong trào gây giống mới, làm thuỷ lợi, cải tạo
đất, làm phân hữu cơ. Nhiều hợp tác xă mở
rộng sản xuất từ hai đến 3 vụ lúa,
đời sống xă viên được nâng lên, đóng góp
cho Nhà nước được nhiều hơn, vốn
tích luỹ và tài sản cố định b́nh quân cứ 2 hợp
tác xă có một máy kéo lớn, 2 đến 3 máy kéo nhỏ.
Tuy nhiên, phong trào hợp tác hoá trong năm 1980 c̣n có một số
mặt tồn tại: Các hợp tác xă yếu kém c̣n chiếm
gần 30%, chủ yếu tập trung ở huyện Đồng
Xuân và Tây Sơn; việc quản lư ruộng đất, lao
động ở nhiều hợp tác xă chưa đi vào nền
nếp, đội ngũ cán bộ chưa đáp ứng
được yêu cầu của t́nh h́nh mới. Nguyên nhân
là do cách làm ồ ạt, máy móc, cuốn chiếu, nóng vội,
nhất là ở vùng trung du miền núi, làm cho lực sản
xuất chậm phát triển, đời sống một bộ
phận nhân dân khó khăn gặp nhiều khó khăn.
Từ năm 1977 đến
năm 1980, Bên cạnh tập trung vào nhiệm vụ trung
tâm là cải tạo xă hội chủ nghĩa trên các lĩnh
nông nghiệp và công thương nghiệp, tỉnh cũng
quan tâm chỉ đạo các mặt công tác khác và đạt
được một số thành tựu, trong đó nổi
bật nhất là các thành tựu trên lĩnh vực văn
hoá – xă hội và an ninh quốc pḥng. Nền văn hoá xă hội
chủ nghĩa ra đời, loại bỏ một bước
quan trọng ảnh hưởng văn hoá nô dịch thực
dân mới của đế quốc Mỹ. Nạn mù chữ
bị xoá bỏ, hệ thống nhà trường phổ
thông, mẫu giáo, bổ túc văn hoá được xây dựng
và mở rộng. Tuy đất nước c̣n nhiều khó
khăn, nhưng Đảng và Nhà nước đă thực
hiện miễn học phí cho học sinh. Phong trào giáo dục
ở các huyện miền núi thu được những
thành tích lớn về thanh toán nạn mù chữ, bổ túc
văn hoá cho cán bộ và nhân dân. Tính đến năm học
1980-1981, ngành giáo dục phổ thông trên địa bàn Bắc
Phú Khánh có 91 trường với
3.048 giáo viên và 128.863 học sinh. Các trường
đào tạo kỹ thuật, nghiệp vụ như
trường Trung cấp lao động tiền
lương, Trung cấp nông nghiệp Hoà Thắng, Trung học
sư phạm Bắc Phú Khánh tham gia đào tạo hàng
trăm cán bộ, giáo viên và công nhân kỹ thuật góp phần
nâng cao tŕnh độ dân trí lên một bước. Nền y
tế xă hội chủ nghĩa h́nh thành và phát triển. Cũng
như giáo dục, Nhà nước thực hiện khám và chữa
bệnh miễn phí cho nhân dân. Đến cuối năm
1980, Bắc Phú Khánh có 78 cơ sở chữa bệnh với
1.268 giường bệnh. Đội ngũ y, bác sỹ
được tăng cường cả về số
lượng và chất lượng. Tính b́nh quân cứ 60
ngàn dân có một cơ sở chữa bệnh, 352 người
dân có một giường bệnh và trong 1 vạn dân có 2,2
cán bộ y tế và 1,3 bác sỹ phục vụ. Ngành y tế
kết hợp Đông y và Tây y đă thực hiện khám và
chữa bệnh cho hàng trăm ngàn lượt người;
phong trào “5 dứt điểm”([114])
được đẩy mạnh và thu được kết
quả khá tốt, đi đầu trong phong trào này là thị
xă Tuy Hoà.
Trên lĩnh
vực quốc pḥng – an ninh: Để đối phó lại
với các hành động khiêu khích, chống phá cách mạng
nước ta của các thế lực thù địch và chủ
nghĩa đế quốc, Đảng bộ và nhân dân trong
tỉnh tăng cường cảnh giác, kiên quyết đấu
tranh trấn áp bọn phản cách mạng, kịp thời
ngăn chặn và làm thất bại các âm mưu phá hoại
của địch, truy lùng và tiêu diệt các toán vũ trang
phản cách mạng, phá các tổ chức chính trị phản
động vừa nhen nhóm. Từ năm 1977-1979, trên địa
bàn Bắc Phú Khánh có 12 tổ chức phản động bị
xoá sổ. Ngoài ra ta c̣n phát hiện, bắt giữ hàng
trăm vụ vượt biên, đưa người trốn
đi nước ngoài trái phép và các tổ chức phản
động từ bên ngoài xâm nhập vào. An ninh chính trị
và trật tự an toàn xă hội được giữ vững.
Công cuộc pḥng thủ bảo vệ Tổ quốc
được chú trọng. Hưởng ứng lời kêu
gọi của Ban Chấp hành Trung ương Đảng ngày
4-3-1979 và lệnh tổng động viên của Chủ tịch
nước ngày 5-3-1979, tỉnh tiến hành một bước
quân sự hoá toàn dân, thực hiện luyện tập quân sự
trong các cơ quan, xí nghiệp, trường học.. lực
lượng vũ trang quần chúng phát triển cả về
số lượng lẫn chất lượng. Bộ
đội tỉnh huyện được tăng cường
về tổ chức, trang bị, triển khai bố trí
theo yêu cầu pḥng thủ và sẵn sàng chiến đấu,
chất lượng chiến đấu và tinh thần sẵn
sàng chiến đâu của quân đội được
nâng lên.
Ngày 7-1-1981, Hội nghị
Tỉnh uỷ Phú Khánh lần thứ 5 (khoá II) họp bàn và
đề ra phương hướng, nhiệm vụ
cơ bản của kế hoạch 5 năm 1981 – 1985; đồng
thời ra Nghị quyết về nhiệm vụ kinh tế
- xă hội năm 1981, trong đó nhấn mạnh: Tập
trung phát triển nông nghiệp, đẩy mạnh xuất
khẩu, đẩy mạnh sản xuất công nghiệp, tiểu
thủ công nghiệp, đầu tư thích đáng cho các
ngành giao thông vận tải, xây dựng cơ bản nhằm
đáp ứng tốt hơn yêu cầu của nông nghiệp
và công nghiệp nhẹ, tạo ra sự chuyển biến
trên mặt trận phân phối lưu thông, chuyển mạnh
sang phương thức kinh doanh xă hội chủ nghĩa.
Ngày
Về tiểu công nghiệp,
thủ công nghiệp, giao thông - vận tải, bưu điện,
lưu thông phân phối: Trong các năm 1981-1982, các ngành
như sản xuất đường, vật liệu xây dựng,
dệt, cồn, rượu, nước đá… phát triển
thêm một bước. Mạng lưới cơ khí các huyện
được xây dựng, mỗi huyện h́nh thành một
cụm trạm cơ khí, có đội ngũ cán bộ kỹ
thuật – công nhân từ 30-50 người, đồng thời
mở các cụm kinh tế - kỹ thuật ở các hợp
tác xă phục vụ cho sản xuất nông nghiệp. Ngành
giao thông vận tải đă sửa chữa, nâng cấp và
làm mới hơn 400km đường ô tô, 500m cầu kiên cố,
mở rộng hệ thống giao thông nông thôn và miền
núi, phát triển các phương tiện vận tải thô
sơ và bước đầu phát triển vận tải
thuỷ ở Sông Cầu, Tuy An, đáp ứng một phần
nhu cầu phát triển kinh tế, văn hoá và sự đi
lại của nhân dân. Mạng lưới bưu điện
được củng cố và mở rộng, các thị
xă, thị trấn và hơn 1/2 số xă, phường có mạng
lưới điện thoại. Trong công tác lưu thông phân
phối, thương nghiệp xă hội chủ nghĩa chiếm
24% thị trường, góp phần đáng kể vào b́nh ổn
giá cả thị trường không để bị biến
động quá mức.
Về văn hoá, xoá bỏ
căn bản nền văn hoá đồi trụy và các tệ
nạn xă hội do chế độ cũ để lại;
phát triển văn hoá, văn nghệ xă hội chủ nghĩa,
làm thay đổi dần nếp nghĩ và tập quán cũ.
Về giáo dục, phong trào thi đua “hai tốt” được
phát triển ở các trường học, góp phần giáo dục
toàn diện và xây dựng con người mới xă hội
chủ nghĩa. Công tác bổ túc văn hoá phổ cập cấp
1 cho nhân dân và cấp 2-3 cho cán bộ phát triển mạnh mẽ.
Về y tế, hầu hết các huyện, thị, các công,
nông, lâm trường đều có bệnh viện, trạm
y tế, pḥng khám chữa bệnh, nhà hộ sinh. Các phong trào
“5 dứt điểm”, sinh đẻ có kế hoạch,
chăm lo sức khoẻ cho nhân dân được đẩy
mạnh và đạt hiệu khá quả cao.
Ngày
Thực hiện Nghị
quyết của Đại hội Đảng bộ tỉnh,
nhân dân các huyện, thị trên địa bàn Bắc Phú Khánh
đẩy mạnh thâm canh, tăng vụ, xây dựng 12
ngh́n ha lúa cao sản đạt 10 tấn/ha ở huyện
Tuy Hoà và thị xă Tuy Hoà, đưa sản xuất
lương thực quy thóc đạt hơn 20 vạn tấn,
những năm 1983-1985, sản lượng lương thực
b́nh quân tăng 8,2%, bảo đảm cân đối
lương thực trong phạm vi các huyện đồng
bằng, giao nộp đủ nghĩa vụ với Trung
ương và có dự trữ. Cùng với trồng trọt,
các huyện, thị nhất là huyện Tây Sơn, Đồng
Xuân đă tích cực phát triển chăn nuôi ḅ, đưa
đàn ḅ lên hơn 1 vạn con. Tại Tây Sơn, dưới
sự chỉ đạo của tỉnh đă khoanh nuôi
3.000 ha đồng cỏ ở vùng EaTrol, Eabia, Eabá và một
số nơi khác để chăn nuôi các đàn gia súc lớn.
Đi đôi với đẩy
mạnh sản xuất, các huyện, thị tập trung củng
cố các hợp tác xă nông nghiệp, nâng cao công tác hạch
toán kinh tế, đưa công tác quản lư đi vào nền
nếp. Tiếp tục hoàn thiện quan hệ sản xuất
đi đôi với thực hiện chính sách khoán sản phẩm
cuối cùng đến nhóm và người lao động
theo tinh thần Chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung
ương Đảng, các hợp tác xă và tập đoàn sản
xuất có bước phát triển mới, nhiều hợp
tác xă làm ăn giỏi xuất hiện. Ở huyện Tuy
Hoà có 72% hợp tác xă khá, giỏi, không có yếu kém. Kinh tế
gia đ́nh, kinh tế vườn như trồng cây xuất
khẩu, cây ăn quả, cây làm thuốc… phát triển khá.
Về nghề
rừng, các huyện Tây Sơn và Đồng Xuân ra sức bảo
vệ, khôi phục và phát triển vốn rừng. Cùng với
việc tận dụng lực lượng cơ giới
hiện có đầu tư mở thêm một số
đường vào vùng gỗ lớn, tăng nhanh lực
lượng khai thác và vận chuyển thủ công, từ
1983-1985, mỗi năm khai thác hơn 1 vạn tấn gỗ
tṛn. Tiếp tục trồng hơn 4.000 ha rừng tập
trung và phân tán, trong đó có hơn 2.000 ha rừng cát ven biển.
Thực hiện tốt việc giao rừng cho các hợp
tác xă quản lư, tạo điều kiện thuận lợi
cho tập thể, hộ gia đ́nh được hưởng
những lợi ích từ việc trồng rừng, bảo
vệ rừng, hạn chế được một bước
nạn chặt phá rừng, cháy rừng và lăng phí lâm sản.
Về ngư nghiệp,
phát triển nghề đánh cá thủ công truyền thống,
củng cố hợp tác xă nghề cá, kết hợp
đánh bắt, nuôi trồng, chế biến và bán buôn,
tăng thêm thu nhập cho nhân dân. Năm 1985, trên địa
bàn Bắc Phú Khánh đánh bắt được trên 3 vạn
tấn, thu mua 2,3 vạn tấn. Mở rộng hơn 1.000
ha mặt nước nuôi trồng thuỷ sản.
Trong công
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, các huyện, thị
ra sức đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng, hàng
xuất khẩu, giá trị sản lượng từ
1983-1985, tăng b́nh quân hàng năm 22,1%. Mạng lưới
điện diezen ở thị xă Tuy Hoà được mở
rộng, các trạm điện ở Tuy An, Đồng
Xuân, Tây Sơn được củng cố và tăng
cường. Tổ chức được nhiều cơ
sở sản xuất bánh kẹo, thuốc lá điếu ở
Tuy Hoà, sản xuất xà pḥng ở Sông Cầu, gốm, sành
sứ ở thị xă Tuy Hoà, Tuy An…
Về giao thông vận tải,
phát triển vận tải nông thôn bao gồm phát triển
xe ḅ, xe ngựa, củng cố các tuyến đường
như: đường sắt, quốc lộ 1, liên tỉnh
lộ 5, 7. Mở đường khai thác vùng Sông Hinh, bảo
đảm thông suốt vận chuyển lương thực,
nguyên liệu hàng hoá.
Trong xây dựng cơ bản,
ngoài số vốn đầu tư của Trung ương
cấp, tỉnh đẩy mạnh việc huy động
vốn của ngân sách địa phương, vốn sự
nghiệp kinh tế, vốn tín dụng ngân hàng, vốn tự
có của các cơ sở tập thể và quốc doanh, huy
động vốn từ nhân dân, tập trung vào củng cố,
mở rộng, nâng cao các cơ sở hiện có, kết hợp
với đầu tư các công tŕnh trọng điểm.
Ưu tiên đầu tư xây dựng cánh đồng cao sản
huyện Tuy Hoà và thị xă Tuy Hoà; đầu tư cho các
vùng chuyên canh cây công nghiệp, các vùng chăn nuôi tập
trung, mở mang vùng Sông Hinh. Các hợp tác xă sản xuất
nông nghiệp và các cơ sở công nghiệp, tiểu thủ
công nghiệp cũng được tăng cường xây
dựng cơ sở vật chất kỹ thuật. Đầu
tư các cơ sở dệt và công nghiệp chế biến
ở thị xă Tuy Hoà, Tuy An, mở rộng giao thông miền
núi và miền biển.
Thực
hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khoá V) về phân
phối lưu thông, Nhà nước phải nắm hàng, nắm
tiền làm chủ thị trường và giá cả, tăng
nhanh mọi nguồn thu bảo đảm cung cấp đủ
9 mặt hàng theo đúng định lượng, chất
lượng và thời gian cho người ăn
lương. Tỉnh đă cố gắng phấn đấu
từng bước duy tŕ ổn định thị trường
phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân,
thực hiện nắm nguồn hàng bằng nhiều
phương thức linh hoạt như thu thuế, thu mua
theo giá chỉ đạo và giá thoả thuận, chủ yếu
là theo hợp đồng hai chiều. Từ 1983-1985, trên mặt
trận phân phối lưu thông có nhiều tiến bộ,
nhưng từ tháng 10-1985 trở đi t́nh h́nh diễn biến
phức tạp, bộc lộ nhiều yếu kém trong nhận
thức, chỉ đạo, điều hành; kỷ
cương quản lư bị vi phạm, giá cả thị
trường biến động mạnh. Việc nâng giá của
thị trường có tổ chức, gây tâm lư giữ hàng
chờ tăng giá, tư thương lợi dụng cơ
hội tự do hoạt động, đẩy giá lên cao,
gây rối thị trường ảnh hưởng đến
sản xuất và đời sống.
Về xây dựng miền
núi, trên địa bàn huyện Tây Sơn đă xây dựng và
hoàn chỉnh quy hoạch tổng thể, từng bước
h́nh thành các cụm kinh tế - văn hoá liên xă, gắn với
việc định canh, định cư. Huyện có chính
sách khuyến khích người có vốn, có phương tiện,
kỹ thuật lên làm ăn ở miền núi.
Công tác văn hoá, giáo dục,
y tế được chú trọng và phát triển thêm một
bước. Nhân dân các huyện, thị tiếp tục
đấu tranh quét sạch những tàn dư tư tưởng
và văn hoá phản động, đồi trụy trái với
nền văn hoá xă hội chủ nghĩa. Các đài, trạm
phát thanh huyện được củng cố, mở rộng,
đặt loa đến tận các thôn, xă tuyên truyền
đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật
của Nhà nước. Hàng tháng các đội chiếu phim
lưu động thường xuyên phục vụ cho đồng
bào nông thôn miền núi, các vùng kinh tế mới. Đời
sống tinh thần của nhân dân được nâng lên. Về giáo dục, các địa
phương thực hiện tốt chính sách đối với
giáo viên miền núi và hải đảo, củng cố và mở
thêm trường vừa học vừa làm, khôi phục và giữ
vững phong trào học bổ túc văn hoá. Đến
năm 1985, cứ 3,5 người dân có một người
đi học. Về y tế,
nâng cao chất lượng khám chữa bệnh ở tuyến
huyện, tăng cường củng cố các trạm xá ở
tuyến xă; khai thác và nuôi trồng các loại dược liệu,
bảo đảm đủ thuốc chữa bệnh thông
thường, nhất là thuốc cho trẻ em.
Trong công tác an ninh quốc
pḥng, các cấp uỷ, chính quyền từ huyện, thị
đến cơ sở tăng cường tuyên truyền
làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân hiểu rơ chiến
tranh phá hoại kinh tế là mưu đồ hiểm độc
nhất trong chiến lược chiến tranh phá hoại
nhiều mặt của địch. Đi đôi với
giáo dục, nâng cao cảnh giác, bảo vệ kho tàng, cơ
sở công nghiệp, công tŕnh thuỷ lợi, công tŕnh điện.
Tăng cường bảo vệ nội bộ, bảo vệ
kho tàng, thực hiện nghiêm ngặt chế độ trách
nhiệm cá nhân trong việc chống địch phá hoại
kinh tế, gây rối thị trường và chống chiến
tranh tâm lư. Trừng trị đích đáng bọn chủ
mưu tung tin xuyên tạc, bịa đặt, truyền bá
văn hoá phản động. Phát động mạnh mẽ
phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc,
động viên quần chúng tự nguyện, tự giác làm
chủ nơi cư trú, nơi sản xuất. Tích cực
xây dựng các tuyến an ninh nhân dân, nhất là các huyện
ven biển và các vùng giáp ranh rừng núi.
3. Những năm đầu thực hiện
đường lối đổi mới của Đảng
(1986 – 6/1989).
Bước sang năm
1986, tiếp tục thực hiện đường lối
phát triển kinh - tế xă hội do Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ V đề ra
(3-1982), Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh nỗ lực
phấn đấu và đạt được một số
kết quả: Trên lĩnh vực nông nghiệp, năng suất
và sản lượng lương thực tăng hơn
trước, nhiều hợp tác xă nông nghiệp đạt
trên 5 tấn thóc/ha/vụ. Lương thực không những
đủ ăn mà c̣n dư bán ra ngoài, b́nh quân lương thực
đầu người đạt 400 kg. Chăn nuôi trâu, ḅ,
heo cũng phát triển khá. Ngành lâm nghiệp khai thác
được 1 vạn m3 gỗ. Các cơ sở sản
xuất vải, giấy, xà pḥng, thuốc lá cũng phát triển
hơn trước. Nhưng nh́n chung, đến thời
điểm này các huyện, thị trên địa bàn Bắc
Phú Khánh nói riêng và cả nước nói chung t́nh h́nh kinh tế
- xă hội hết sức khó khăn, công nhân lao động
thường xuyên không đủ việc làm, giá cả thị
trường biến động, đời sống cán bộ
- công nhân viên chức và đại bộ phận các tầng
lớp nhân dân lao động hết sức thiếu thốn.
Trước
t́nh h́nh đó, Đại hội Đảng bộ Phú Khánh
lần thứ IV được tiến hành từ ngày 20
đến ngày 26-10-1986, tại thành phố Nha Trang. Đại
hội đă đề ra phương hướng, nhiệm
vụ phát triển kinh tế - xă hội của tỉnh
trong giai đoạn 1986-1990 là: Phát
triển mạnh mẽ, vững chắc, toàn diện nông
nghiệp, củng cố và không ngừng hoàn thiện quan hệ
sản xuất XHCN, đưa tiến bộ khoa học kỹ
thuật vào thúc đẩy sản xuất; huy động mọi
nguồn vốn tập trung xây dựng cơ sở vật
chất kỹ thuật; cải tiến mạnh mẽ các
hoạt động phân phối lưu thông; tăng cường
hợp tác kinh tế, hạn chế tỷ lệ tăng
dân số; đẩy mạnh các hoạt động văn
hoá xă hội, xây dựng nền văn hoá mới, con người
mới xă hội chủ nghĩa; tăng cường công
tác an ninh quốc pḥng. Đại hội đă bầu
Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 45 uỷ viên chính
thức, 15 uỷ viên dự khuyết. Đồng chí Nguyễn
Duy Luân được bầu làm Bí thư Tỉnh uỷ.
Sau Đại hội
Đảng bộ tỉnh, một sự kiện chính trị
hết sức quan trọng diễn ra là Đại hội
Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của
Đảng được tiến hành tại Thủ
đô Hà Nội từ ngày 5 đến ngày 18-12-1986. Đại
hội VI đề ra đường lối đổi mới
toàn diện đất nước, đánh dấu bước
chuyển biến rất quan trọng trong nhận thức
của Đảng về thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xă hội ở nước ta. Đại hội chủ
trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần theo định hướng xă hội chủ
nghĩa, đẩy mạnh thực hiện 3 chương
tŕnh kinh tế lớn, tăng cường đổi mới
tư duy, kiên quyết xoá bỏ cơ chế tập trung
quan liêu bao cấp, chuyển hẳn sang cơ chế hạch
toán kinh doanh xă hội chủ nghĩa.
Sau Đại hội VI,
tỉnh triển khai thực hiện nghiêm túc Chỉ thị
80 của Hội đồng Bộ trưởng, xoá bỏ
t́nh trạng ngăn sông cấm chợ, các trạm kiểm
soát trên trục đường quốc lộ 1A từ
đèo Cù Mông đến Đèo Cả, đường số
7, đường số 5 từ Phú Lâm đi Sông Hinh,
đường số 6 từ Chí Thạnh đi Đồng
Xuân được xoá bỏ. Vấn đề khó khăn
trong lưu thông được khắc phục, nhân dân phấn
khởi đi lại buôn bán, chấm dứt t́nh trạng
“ngăn sông cấm chợ”, mở ra một hướng
phát triển mới, ổn định t́nh h́nh phân phối
lưu thông. Tuy vậy, trong quá tŕnh triển khai Chỉ thị
80, tỉnh chưa có phương án chuyển đổi
phương thức hoạt động phù hợp, nhất
là công tác quản lư thị trường, nên c̣n nhiều
sơ hở cho nạn đầu cơ buôn lậu, trốn
thuế.
Ngày
Ngày 15-7-1988, Bộ Chính trị
ra Nghị quyết 16 NQ/TW về đổi mới chính sách
và cơ chế quản lư đối với các cơ sở
sản xuất thuộc thành phần kinh tế ngoài quốc
doanh, nhằm khuyến khích mọi người lao động
làm giàu và thu nhập một cách hợp pháp, thực hiện
nguyên tắc dân chủ, công bằng và b́nh đẳng về
kinh tế, chính trị và xă hội giữa các thành phần
kinh tế. Nhờ có chủ trương đúng đắn
của Đảng, cùng với sự phát triển của
kinh tế quốc doanh, các thành phần kinh tế khác đă
linh hoạt khắc phục mọi khó khăn, duy tŕ sản
xuất, nêu cao tinh thần trách nhiệm trong khâu vật
tư và tiêu thụ sản phẩm, cố gắng thay đổi
cơ cấu sản phẩm, tạo việc làm cho công nhân
và có vốn để duy tŕ sản xuất. Tiêu biểu
như Hợp tác xă Minh Khai, Hợp tác xă dệt Tuy Hoà, Hợp
tác xă vận tải cơ giới… của thị xă Tuy Hoà.
Sau hai năm thực hiện
đường lối đổi mới của Đảng,
đến cuối năm 1988, t́nh h́nh kinh tế xă hội
có chuyển biến tốt. Các chính sách kinh tế mới,
cơ chế quản lư kinh tế mới và việc mở
rộng dân chủ xă hội chủ nghĩa có tác động
tích cực đến sản xuất nông nghiệp, công nghiệp,
lưu thông phân phối… Nhịp độ tăng giá và lạm
phát bắt đầu chậm lại. Các nhân tố mới
và điển h́nh trong lao động và sản xuất xuất
hiện ngày càng nhiều trên tất cả các lĩnh vực.
Nông thôn dần dần đi vào thế ổn định. Trong
công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, nhiều hợp
tác xă, đơn vị, xí nghiệp, hợp tác xă đă phát
huy quyền làm chủ, sáng tạo giải quyết một
số khâu trong sản xuất kinh doanh như chuẩn bị
vật tư, nguồn vốn, đổi mới trang thiết
bị kỹ thuật nhằm nâng cao chất lượng
và hạ giá thành sản phẩm. Hàng loạt nghề thủ
công truyền thống được phát triển ở thị
xă Tuy Hoà, các huyện Tuy An, Tuy Hoà như làm đồ gốm,
gạch, ngói, dệt chiếu, đan lát…Nhiều cơ sở
ngoài quốc doanh đă huy động hàng trăm triệu
đồng mở thêm cơ sở sản xuất mới tạo
công ăn việc làm cho hàng ngàn lao động.
Trên lĩnh vực văn
hoá, các hoạt động của ngành Văn hoá - thông tin
đi vào đổi mới, tăng cường công tác quản
lư phát hành phim, băng ghi h́nh,… phục vụ nhân dân. Để
đáp ứng quy mô, chất lượng giáo dục trước
yêu cầu mới, một số huyện, thị đă khắc
phục khó khăn, phối hợp với ngành giáo dục
đầu tư cơ sở vật chất, trường
lớp cho học sinh. Cùng với các ngành khác, ngành y tế
không ngừng cải thiện cơ sở vật chất,
đội ngũ y, bác sỹ, nâng cao chất lượng
khám chữa bệnh cho nhân dân. Các dịch bệnh có xu
hướng giảm, nhất là dịch sốt rét ở các
huyện miền núi Sơn Hoà, Sông Hinh.
Ngày 4-3-1989, Bộ Chính trị
Trung ương Đảng có Quyết định số
83-QĐ/TW chia tỉnh Phú Khánh thành hai tỉnh Phú Yên và Khánh
Hoà. Tiếp đó, tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội
khoá VIII đă ra Nghị quyết chia tỉnh Phú Khánh thành hai
đơn vị hành chính là tỉnh Phú Yên và tỉnh Khánh
Hoà. Thực
hiện Quyết định của Bộ Chính trị và
Nghị quyết của Quốc hội, ngày 30-6-1989, tỉnh
Phú Yên được tái lập.
Hội nghị Tỉnh uỷ
Phú Yên lần thứ nhất họp (
III. Phú Yên từ
ngày tái lập tỉnh 1-7-1989 đến năm 2005.
1. Ổn định t́nh h́nh sau chia tỉnh,
tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ kinh tế
- xă hội (7/1989 - 1991).
Từ ngày
Sau chia tỉnh, thị xă
Tuy Hoà trở thành trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá
của tỉnh nên được quan tâm đầu tư
xây dựng. Trước hết, tỉnh tập trung chỉ
đạo xây dựng cơ sở vật chất phục
vụ phúc lợi xă hội như Đài phát thanh, Đài
truyền h́nh, Trung tâm bưu điện tỉnh, khoa cấp
cứu trung tâm bệnh viện tỉnh; san ủi đất
để h́nh thành 2 khu dân cư mới ở phường
2 và phường 5; xây dựng và cải tạo mạng
lưới điện chiếu sáng, hệ thống cấp
nước sạch… Về trụ sở làm việc, tiến
hành sửa chữa Tỉnh đường cũ (cơ
quan hành chính của ngụy quyền) làm nơi làm việc của
Uỷ ban nhân dân tỉnh; sửa chữa trụ sở Thị
uỷ Tuy Hoà làm cơ quan của Tỉnh uỷ; các cơ
quan, ban ngành đoàn thể tỉnh trưng dụng những
nhà Nhà nước quản lư để làm trụ sở.
Để giải quyết nơi ăn ở của cán bộ,
nhân viên, chiến sỹ lực lượng vũ trang từ
Nha Trang chuyển về, tỉnh tập trung san ủi mặt
bằng, phóng tuyến, phân lô, làm đường, kéo điện,
giao đất cho từng hộ gia đ́nh, cho mỗi hộ
vay hai triệu đồng không tính lăi để xây dựng
nhà ở.
Cùng với ổn định
t́nh h́nh các mặt sau chia tỉnh, các cấp uỷ Đảng,
chính quyền tập trung chỉ đạo các mặt công
tác nên sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp
được giữ vững và có mặt phát triển
hơn trước như trồng rừng, khai thác gỗ,
nuôi trồng thuỷ sản, sản xuất lương thực.
Nhờ thực hiện Nghị quyết 10 của Bộ
Chính trị mà bộ máy biên chế gián tiếp của các hợp
tác xă sản xuất nông nghiệp giảm b́nh quân 45%, số
hộ vượt khoán tăng, nông dân phấn khởi. Công
tác giáo dục, y tế, văn hoá thông tin được phục
hồi và củng cố một bước. An ninh chính trị
và trật tự an toàn xă hội được giữ vững.
Từ ngày 11 đến
ngày 13-1-1990, Hội nghị Tỉnh uỷ Phú Yên lần thứ
4 họp đă xác định tư tưởng chỉ
đạo xây dựng và phát triển kinh tế - xă hội
của tỉnh là: “Phát huy những
kết quả bước đầu đă đạt
được, tận dụng những thuận lợi,
tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới
do Đại hội Đảng lần thứ VI đề
ra, tiếp tục ổn định hơn nữa t́nh h́nh
kinh tế - xă hội, phát triển mạnh mẽ nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần trên mọi lĩnh vực,
kiên quyết chỉ đạo các công ty, xí nghiệp thoát khỏi
t́nh trạng bao cấp, ỷ lại, chuyển sang hạch
toán kinh tế, lấy hiệu quả sản xuất kinh
doanh cuối cùng làm thước đo năng lực tổ
chức thực hiện. Phát huy tính tự chủ, năng
động, sáng tạo của mỗi đơn vị kinh
tế, mỗi ngành, mỗi địa phương… Mở
rộng giao lưu hợp tác với nước ngoài,
tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu. Giải quyết tốt
các chính sách xă hội, chăm lo đời sống nhân dân.
Đẩy mạnh phong trào toàn dân tham gia công tác an ninh quốc
pḥng”.
Thực hiện Nghị
quyết của Tỉnh uỷ, tỉnh đẩy mạnh
sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất
hàng hoá, thực hiện chính sách khoán sản phẩm, xoá bỏ
chế độ bao cấp, tự do lưu thông và điều
hoà cung cầu lương thực nên năng suất lúa
tăng, tiếp tục giữ vững được vị
trí là một trong những tỉnh có năng suất lúa cao
nhất của cả nước. Trong lưu thông, nhờ có chủ trương phát
triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, nên hàng tiêu
dùng tăng hơn trước và có tiến bộ về chất
lượng. Trong xây dựng
cơ bản tập trung đầu tư một số
công tŕnh trọng điểm trực tiếp phục vụ
các chương tŕnh phát triển kinh tế, phúc lợi xă hội.
Bước đầu h́nh thành một số ngành sản xuất
mới, có triển vọng tốt, một số vùng sản
xuất hàng hoá tập trung về lương thực, cây
công nghiệp, đánh bắt và nuôi trồng thuỷ sản,
nhất là các cơ sở cho sản xuất công nghiệp. Ngành văn hoá – thông tin xây dựng
phương án bảo tồn và phát huy các giá trị văn
hoá dân tộc, sưu tầm và bảo quản được
nhiều hiện vật có giá trị về lịch sử
- văn hoá như bộ đàn đá Tuy An, cặp kèn đá
thời tiền sử có niên đại khoảng 2.500
năm…; tiến hành sưu tầm và khôi phục có chọn
lọc các sinh hoạt văn hoá phi vật thể ở các
địa phương; công tác xây dựng nếp sống
văn hoá và gia đ́nh văn hoá được tiến hành
từ tỉnh đến cơ sở có nhiều tiến bộ.
Công tác giáo dục, y tế thu được nhiều kết
quả quan trọng. T́nh h́nh an ninh chính trị, trật tự
an toàn xă hội được bảo đảm, chất
lượng các lực lượng vũ trang được
chú ư củng cố nâng lên một bước.
Có thể nói những
thành tựu bước đầu đạt được
sau chia tỉnh là đáng phấn khởi, nhưng t́nh h́nh
kinh tế - xă hội của tỉnh c̣n rất khó khăn:
Nhiều cơ sở sản xuất kinh doanh không phát triển
kéo dài; t́nh trạng tham nhũng tiêu cực, bất công trong
xă hội vẫn tồn tại; đời sống của
những người ăn lương hoặc trợ cấp
xă hội và một bộ phận nông dân giảm sút; tâm trạng
lo lắng của một bộ phận nhân dân có chiều
hướng tăng lên.
2. Tiếp tục thực hiện đổi
mới kinh - tế xă hội (1992-1995).
Từ ngày 2 đến
ngày
Sau Đại hội, Tỉnh
uỷ đề ra nhiều chủ trương, biện
pháp để cụ thể hoá Nghị quyết của
Đại hội như Hội nghị Tỉnh uỷ lần
thứ 3 (6-1992) ra Nghị quyết về phát triển công
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, Hội nghị Tỉnh
uỷ lần thứ 13 (11-1993) ra Nghị quyết về
đổi mới và phát triển kinh tế - xă hội nông
thôn… đă làm cho t́nh h́nh mọi mặt của đời sống
kinh tế - xă hội chuyển biến tích cực. Thành tựu
đầu tiên đạt được là những tiến
bộ trong việc thực hiện các mục tiêu của ba
chương tŕnh kinh tế lớn (Lương thực - thực
phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu). Trong nông nghiệp,
tiếp tục giải phóng sức sản xuất, khai thác
và huy động cao nhất mọi nguồn lực, mọi
tiềm năng để phát triển nông nghiệp nông
thôn. Cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất
kỹ thuật trong nông nghiệp, ngành nghề nông thôn
được đầu tư thêm một bước. Do
đó sản lượng lương thực quy thóc b́nh
quân hàng năm đạt 28 vạn tấn. Kinh tế hộ
được phát huy, năng lực sản xuất phát
triển hơn trước. Bước đầu h́nh
thành vành đai rau, hoa, quả xung quanh thị xă Tuy Hoà. Cùng với
việc giải phóng và phát triển sức sản xuất,
quan hệ sản xuất xă hội chủ nghĩa
được giữ vững và củng cố, số hợp
tác làm ăn khá giỏi chiếm 32,3%. Công tác chỉ đạo
trồng rừng theo dự án và trồng cây phân tán chặt
chẽ và tốt hơn trước. Nghề cá của nhân
dân phát triển, năng lực đánh bắt, chế biến
tăng khá. Sản xuất công nghiệp và tiểu thủ
công nghiệp chuyển biến tích cực, mức tăng
trưởng giá trị sản xuất công nghiệp b́nh
quân hàng năm là 9,75%.
Thị trường từng
bước được mở rộng, hàng hoá phong phú, với
sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế, bước
đầu đă huy động được nhiều tiềm
năng về vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm quản
lư, kinh doanh của các tầng lớp nhân dân vào sản xuất,
lưu thông, phục vụ mua bán. Đến năm 1995, toàn
tỉnh tổ chức được 18 doanh nghiệp Nhà
nước, trên 270 doanh nghiệp tư nhân, 20 công ty trách nhiệm
hữu hạn và trên 9.000 hộ kinh doanh thương mại,
dịch vụ khách sạn nhà trọ với tổng vốn
lưu chuyển hàng hoá bán lẻ trên thị trường
lên đến trên 1.021 tỷ đồng (gấp 11,8 lần
so với năm 1989). Mạng lưới chợ trên địa
bàn tỉnh được sửa chữa và tổ chức
lại thuận tiện cho việc trao đổi mua bán
hàng hoá. Đă h́nh thành được một số trung tâm
thương mại ở thị xă, thị trấn, thị
tứ. Thương nghiệp quốc doanh có sự chuyển
đổi phương thức kinh doanh, dần thích nghi với
kinh tế thị trường, giữ tỷ trọng tuyệt
đối về xuất khẩu. Năm 1995, kim ngạch
xuất khẩu tăng 50,6 lần so với năm 1989.
Công tác đầu tư
đi đúng hướng, phân bổ hợp lư giữa các
ngành, do đó cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo
hướng tích cực, thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế cao, tốc độ tăng trưởng b́nh
quân giai đoạn 1991-1995 đạt 7,4%/năm. Thu ngân sách
địa phương tăng b́nh quân hàng năm hơn 45%.
Hoạt động ngân hàng thích nghi dần với cơ chế
thị trường, các hoạt động tín dụng
đa dạng hơn, góp phần thúc đẩy kinh tế -
xă hội phát triển.
Công tác giáo dục -
đào tạo đă chuyển sang quản lư toàn ngành, phát triển
các loại h́nh đào tạo, củng cố sắp xếp
lại hệ thống trường học. Thị xă Tuy
Hoà và 59 xă, thị trấn của các huyện được
công nhận đơn vị hoàn thành công tác phổ cập
tiểu học xoá mù chữ. Toàn tỉnh từ năm
1992-1995 xây dựng thêm được 1 trường trung học
phổ thông và 3 trường trung học cơ sở. Công
tác chăm sóc sức khoẻ ban đầu, bảo vệ
bà mẹ, trẻ em, thực hiện chính sách dân số, kế
hoạch hoá gia đ́nh và việc triển khai chương
tŕnh y tế quốc gia nhiều có tiến bộ.
Trong công tác quốc pḥng -
an ninh, tỉnh chú ư kết hợp công tác an ninh - quốc
pḥng với phát triển kinh tế, xây dựng kinh tế với
củng cố quốc pḥng - an ninh. Đồng thời có sự
phối hợp tốt hơn giữa các lực lượng,
các ngành, Mặt trận và các đoàn thể quần chúng
trong nhiệm vụ củng cố quốc pḥng, giữ vững
an ninh chính trị, trật tự an toàn xă hội. Công tác tuyển
quân giao quân có sự tiến bộ. Lực lượng vũ
trang của tỉnh phát triển cả về số lượng
lẫn chất lượng. Bộ đội tỉnh, huyện
được tăng cường về tổ chức,
trang bị và triển khai bố trí theo yêu cầu pḥng thủ
và sẵn sàng chiến đấu.
3. Đẩy mạnh sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá (1996-2000).
Từ năm 1992-1995, mặc
dù phải đối mặt với hàng loạt khó khăn
thử thách, nhưng dưới sự lănh đạo tập
trung năng động của cấp uỷ Đảng và
chính quyền các cấp, về cơ bản Phú Yên đă
hoàn thành nhiệm vụ do Đại hội Đảng bộ
tỉnh lần thứ XI đưa ra. Nhưng nh́n chung,
đến đầu năm 1996, Phú Yên vẫn c̣n phải
đối mặt với nhiều khó khăn thử thách của
một tỉnh mới chia tách: Kinh tế chậm phát triển,
hoạt động tài chính, ngân hàng, thương nghiệp
quốc doanh c̣n nhiều yếu kém chạy theo buôn bán nhiều
hơn sản xuất; khuynh hướng thương mại
hoá xâm nhập vào cả các hoạt động văn hoá, y
tế, giáo dục. Hoạt động của kinh tế quốc
doanh thu hẹp và đạt hiệu quả thấp. Kinh tế
tập thể trong nông nghiệp đă chuyển sang thực
hiện rộng răi cơ chế khoán mới, bước
đầu tạo ra sự phát triển mới về sản
xuất, nhưng phần lớn các ban quản lư hợp tác
xă và tập đoàn sản xuất đang lúng túng trong hoạt
động, t́nh trạng khoán trắng cho xă viên c̣n phổ
biến, các vụ tranh chấp ruộng đất c̣n nhiều
vấn đề phức tạp. Hoạt động tiểu
thủ công nghiệp manh mún. Hợp tác xă phần lớn kinh
doanh thua lỗ, chưa có hướng hoạt động
hiệu quả. Kinh tế tư nhân có một số hộ
cá thể bỏ vốn kinh doanh, nhưng những người
có vốn lớn, có kinh nghiệm làm ăn chưa mạnh dạn
đầu tư sản xuất. Đời sống một
bộ phận dân cư c̣n khó khăn, một bộ phận
không nhỏ nhân dân mức sống dưới nhu cầu tối
thiểu. T́nh trạng thất nghiệp thiếu việc
làm c̣n phổ biến. Sự nghiệp văn hoá – xă hội
vẫn chưa theo kịp yêu cầu của thời kỳ
mới.
Trong t́nh h́nh đó, Đại
hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XII
được tổ chức tại Nhà văn hoá Diên Hồng
từ ngày 7 đến ngày
Bước vào thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
bằng các Nghị quyết của Tỉnh uỷ, các địa
phương, các ngành trong tỉnh đă vận dụng sáng
tạo, bảo đảm đúng định hướng,
đáp ứng nguyện vọng và đ̣i hỏi của nhân
dân. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng
công nghiệp hoá, hiện đại hoá: Tỷ trọng công
nghiệp và xây dựng trong GDP tăng từ 12,4% năm 1995
lên 22,7% vào cuối năm 2000; tỷ trọng nông lâm ngư
nghiệp giảm từ 50,7% xuống c̣n 44,1% vào cuối
năm 2000 và dịch vụ chiếm 33,2% trong GDP của tỉnh.
Phát triển nông nghiệp
và nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại
hoá và hợp tác hoá là ưu tiên hàng đầu của tỉnh.
Quan hệ sản xuất xă hội chủ nghĩa và lực
lượng sản xuất ở nông thôn từng bước
được củng cố và phát triển. Tốc độ
tăng trưởng b́nh quân hàng năm của nông – lâm –
ngư nghiệp là 3,5%, sản lượng lương thực
quy thóc giữ mức trên dưới 30 vạn tấn. Phát
triển nông nghiệp, nông thôn của tỉnh giai đoạn
1996-2000, tập trung chủ yếu vào các chương tŕnh lớn
như: Chương tŕnh lương thực, chương
tŕnh mía đường; chương tŕnh phát triển các loại
cây công nghiệp; tham gia chương tŕnh quốc gia trồng
5 triệu ha rừng, chương tŕnh phát triển chăn
nuôi, chương tŕnh thuỷ lợi, chương tŕnh chế
biến nông – lâm - thuỷ sản và chương tŕnh phát triển
thuỷ sản. Công tác chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp thu được một số kết quả
đáng kể: H́nh thành được một số vùng
chuyên canh cây công nghiệp tập trung như cây mía, sắn,
cà phê, điều ở các huyện Sơn Hoà, Sông Hinh, Đồng
Xuân, phía Tây huyện Tuy Hoà và phía Nam huyện Tuy An. Cùng với
chuyển dịch cơ cấu cây trồng, ngành chăn nuôi
cũng được chú trọng phát triển theo hướng
chăn nuôi hàng hoá, đến năm 2000, toàn tỉnh có 170
ngàn con ḅ, trong đó ḅ lai chiếm 35%. Giá trị ngành thuỷ
sản tăng, hàng năm xuất khẩu trên 2.000 tấn
cá, tôm. Một số công tŕnh công nghiệp chế biến
được xây dựng như Nhà máy đường
Sơn Hoà, nâng công suất Nhà máy đường Tuy Hoà. Hệ
thống thuỷ nông Đồng Cam được nâng cấp
sửa chữa, xây dựng hồ Đồng Tṛn và một
số công tŕnh thuỷ lợi nhỏ khác trong tỉnh. Tiến
hành trồng được 61% diện tích rừng sản
xuất, 36% diện tích rừng pḥng hộ, đưa độ
che phủ của rừng lên đến 40%...
Về công nghiệp nhờ
có sự quan tâm đầu tư đúng hướng, nên từ
năm 1996-2000 tốc độ tăng trưởng b́nh
quân hàng năm đạt 23,85%. Tỷ trọng công nghiệp
trong GDP đạt 21,5%, chiếm 16% trong tổng thu ngân sách
của tỉnh vào năm 2000. Lực lượng sản xuất
tăng cả về số lượng và quy mô, đến
cuối năm 2000 toàn tỉnh có trên 5.000 cơ sở sản
xuất công nghiệp. H́nh thành rơ nét công nghiệp chế biến
sử dụng nguồn nguyên liệu tại chỗ của
địa phương và thu hút được nhiều lao
động ở khu vực nông thôn. Nhiều cơ sở
công nghiệp được đầu tư xây dựng
như: Nhà máy Đường Tuy Hoà mới, các công ty khai
thác và chế biến khoáng sản, Nhà máy đông lạnh Tuy
Hoà, Xí nghiệp Nước khoáng Phú Sen, Công ty Liên doanh bia Sài
G̣n, Nhà máy Gạch Tuy Nen, Nhà máy Thuỷ điện Sông Hinh,
Công ty TNHH sản xuất và kinh doanh xuất nhập khẩu
khoáng sản Diatomit, Nhà máy Sản xuất nước
tăng lực Rhino, h́nh thành khu công nghiệp tập trung Hoà
Hiệp, chuẩn bị xúc tiến làm thủ tục xây dựng
hai khu công nghiệp An Phú và Đông Bắc Sông Cầu…
Về dịch vụ, giá
trị các ngành thương mại, dịch vụ tăng
b́nh quân hàng năm 6,1%. Tỷ trọng hàng địa
phương tham gia xuất khẩu đạt 11,25% tổng
kim ngạch xuất khẩu. Tổng doanh thu bán hàng nội
thương tăng 9,2%, thị trường hàng hoá trong tỉnh
phát triển phong phú, đa dạng, đáp ứng nhu cầu
cho sản xuất và tiêu dùng của nhân dân.
Quy mô đầu tư
phát triển toàn xă hội tăng nhanh, đạt 38% GDP.
Trong đó, vốn đầu tư từ nguồn ngân sách
tỉnh chiếm 12,5%, Trung ương 60,7%, các doanh nghiệp
Nhà nước 5,2% vốn tín dụng đầu tư
4,9%... Vốn đầu tư được sử dụng
có hiệu quả, phần vốn ngân sách Nhà nước chủ
yếu đầu tư cho phát triển cơ sở hạ
tầng.
Về giao thông vận tải
và thông tin liên lạc: Đầu tư xây dựng và nâng cấp
các tuyến giao thông trọng yếu như Quốc lộ
1A, Quốc lộ 25, ĐT 645 và các tuyến tỉnh lộ
khác nối với các trung tâm huyện, xă phục vụ nhu
cầu sản xuất và đi lại của nhân dân. Đến
năm 2000, 100% xă có đường ô tô đến trung tâm
xă. Bên cạnh đó, phong trào xây dựng giao thông nông thôn, bê
tông hè phố có nhiều chuyển biến tích cực. Sân
bay Tuy Hoà được khôi phục và hoạt động
trở lại vào năm 1996, nhưng sau đó phải tạm
ngừng hoạt động do thiếu khách. Ga Tuy Hoà
được đầu tư nâng cấp mở rộng
tăng lượng đón khách. Hệ thống thông tin liên
lạc được đầu tư hiện đại,
đến cuối năm 2000, 87 xă, phường trong tỉnh
có mạng lưới điện thoại, b́nh quân 1,9
máy/100 dân.
Văn hoá – xă hội có
bước phát triển đồng bộ. Năm 1998, tỉnh
đă hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học –
xoá mù chữ, chất lượng dạy và học ở
các cấp học được nâng cao, hệ thống
trường lớp phát triển đều khắp các
thôn, buôn. Nhiều trường học kiên cố được
xây dựng với sự đóng góp của nhân dân. Hầu hết
các xă đều có trạm y tế, hệ thống trung tâm
y tế huyện, thị xă và bệnh viện tỉnh
được nâng cấp, bảo đảm việc
chăm sóc sức khoẻ nhân dân theo các chương tŕnh y tế
quốc gia. Chương tŕnh xoá đói giảm nghèo thu
được một số kết quả khá tốt, tỷ
lệ hộ đói, nghèo năm 2000 chỉ c̣n 8%. Xây dựng
được một số thiết chế văn hoá ở
các huyện, thị xă, xă, phường, thị trấn. Các
hoạt động văn hoá, văn nghệ quần chúng
đă góp phần làm phong phú thêm đời sống văn
hoá tinh thần của các tầng lớp nhân dân. Phong trào thể
dục thể thao rèn luyện sức khoẻ phát triển,
một số môn đạt thứ hạng cao trong các cuộc
thi đấu quốc gia, quốc tế.
Về xây dựng miền
núi: Tỉnh tập trung lănh đạo, chỉ đạo
chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi theo
hướng trồng rừng đi đôi với bảo vệ
rừng, mở rộng diện tích trồng các loại cây
công nghiệp, phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm. Tổng
diện tích gieo trồng toàn vùng năm 1999 lên đến
31.733 ha. Trong đó, cây mía 18.650 ha, lúa nước 1.801 ha, cà
phê 1.080 ha, 5.897 ha rừng… Chăn nuôi phát triển mạnh,
nhất là đàn ḅ có 91.041 con, đàn heo 32.000 con. Hàng năm
Nhà nước đầu tư hàng chục tỷ đồng
để triển khai các chương tŕnh dự án phát triển
kinh tế - xă hội miền núi thuộc các lĩnh vực
giao thông, thuỷ lợi, điện, bưu điện,
định canh định cư, xóa đói giảm nghèo…
Đến năm 2000, 100% xă miền núi có ô tô đến
trung tâm xă; 22/43 xă sử dụng
điện lưới quốc gia; 100% buôn, làng có trường
học và mạng lưới y tế hoạt động;
30% hộ gia đ́nh được dùng nước sạch.
B́nh quân hàng năm giảm được 4,9% số hộ
nghèo, riêng đồng bào dân tộc thiểu số b́nh quân mỗi
năm giảm được 1,9% số hộ nghèo. Các loại
h́nh văn hoá, văn nghệ truyền thống được
bảo tồn, phát huy, nhiều tác phẩm văn học
dân gian của đồng bào dân tộc thiểu số
được sưu tầm giới thiệu.
Công cuộc pḥng thủ bảo
vệ Tổ quốc trên địa bàn tỉnh được
chú trọng. Công tác tuyển quân luôn đạt và vượt
kế hoạch. Chất lượng chính trị, khả
năng chiến đấu của lực lượng vũ
trang được nâng lên. Phong trào quần chúng bảo vệ
an ninh Tổ quốc được mở rộng, xuất
hiện nhiều mô h́nh mới về bảo vệ an ninh Tổ
quốc. Công tác pḥng ngừa, đấu tranh với các hoạt
động xâm phạm an ninh quốc gia, pḥng chống tội
phạm và các tệ nạn xă hội được đẩy
mạnh, kịp thời ngăn chặn có hiệu quả
các hoạt động phá hoại, phát tán tài liệu phản
động, ấn phẩm văn hoá độc hại của
địch và các phần tử xấu.
Những
thành tựu về kinh tế - xă hội mà quân và dân Phú Yên
đạt được trong giai đoạn 1996-2000 là rất
lớn, nhưng nh́n tổng thể Phú Yên c̣n nhiều khó
khăn do xuất phát điểm thấp, cơ cấu kinh
tế chuyển dịch chậm và chưa đồng bộ,
công nghiệp c̣n yếu, kết cấu hạ tầng
chưa đáp ứng yêu cầu phát triển. Thu ngân sách trên
địa bàn chưa đáp ứng yêu cầu đủ chi
thường xuyên. Nguồn thu địa phương c̣n thấp,
chưa có tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế.
Một số vấn đề xă hội bức xúc chưa
được giải quyết đúng mức như giải
quyết việc làm, chống tệ nạn xă hội; những
yếu kém trong giáo dục, y tế chậm được
khắc phục. Công tác chống tham nhũng tiêu cực,
chưa có chuyển biến mạnh. Ở khu vực miền
núi, mặc dù đạt được một số thành
tựu bước đầu về phát triển kinh tế
- xă hội, nhưng vùng đồng bào dân tộc thiểu số
c̣n nhiều khó khăn, sản xuất c̣n mang tính tự cấp,
tự túc, năng suất lao động thấp.
4. T́nh h́nh thực hiện nhiệm vụ
kinh tế - xă hội giai đoạn 2001-2005.
Từ ngày 28 đến
ngày 31-12-2000, Đại hội đại biểu Đảng
bộ tỉnh Phú Yên lần thứ XIII được tổ
chức tại thị xă Tuy Hoà. Đại hội đă
đánh giá những việc làm được và chưa
được trong nhiệm kỳ 1996-2000; đồng thời,
chỉ rơ thực trạng t́nh h́nh kinh tế - xă hội của
tỉnh và thông qua mục tiêu, phương hướng và
nhiệm vụ kinh tế - xă hội của tỉnh trong
giai đoạn 2001-2005.
Về mục
tiêu: “Đẩy mạnh phát triển
kinh tế xă hội với nhịp độ tăng
trưởng cao và bền vững theo hướng công nghiệp
hoá, hiện đại hoá, phấn đấu thu đủ
chi thường xuyên, tạo cơ sở đến 2010 GDP
tăng gấp hai lần so với năm 2000, bắt đầu
có tích lũy từ nội bộ nền kinh tế tỉnh”.
Về phương hướng,
nhiệm vụ: “Thực hiện
hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam xă hội chủ nghĩa,
tiếp tục công cuộc đổi mới, đẩy mạnh
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá,
trước mắt là công nghiệp hoá nông thôn. Đẩy
nhanh quá tŕnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc
đẩy nông - lâm - nghiệp phát triển toàn diện gắn
với phát triển công nghiệp chế biến và dịch
vụ nông thôn. Tập trung xây dựng một số cơ sở
sản xuất công nghiệp với công nghệ hiện
đại, sớm phát huy hiệu quả. Coi trọng đầu
tư xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật,
đáp ứng yêu cầu sản xuất và đời sống.
Đẩy mạnh xây dựng kinh tế - xă hội miền
núi và vùng biển đảo, gắn với khai thác tiềm
năng vùng đất phía Tây tỉnh, vùng ven biển, kinh tế
biển, chăm lo đào tạo nguồn nhân lực, nâng
cao tŕnh độ dân trí và chất lượng đời sống
nhân dân. Củng cố quốc pḥng, giữ vững an ninh
chính trị, trật tự an toàn xă hội; nâng cao cảnh
giác và chủ động ngăn ngừa và làm thất bại
âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hoà b́nh” của
các thế lực thù địch. Tăng cường công
tác đấu tranh chống quan liêu tham nhũng, tiêu cực
và các tệ nạn xă hội…”
Đại hội đă bầu Ban Chấp hành Đảng
bộ gồm 45 đồng chí. Đồng chí Nguyễn
Thành Quang được bầu làm Bí thư Tỉnh uỷ.
Sau Đại hội
Đảng bộ tỉnh, bằng nhiều chủ
trương, biện pháp tích cực, phù hợp với t́nh
h́nh địa phương và sự nỗ lực của
toàn Đảng bộ, toàn quân và toàn dân trong tỉnh, sau 5
năm (2001-2005) thực hiện Nghị quyết của
Đại hội Đảng bộ tỉnh, Phú Yên giành
được những thành tựu hết sức quan trọng
trên tất cả các lĩnh vực kinh tế - xă hội.
Nền kinh tế tiếp
tục phát triển với tốc độ tăng trưởng
khá. Tốc độ tăng GDP b́nh quân hàng năm 10,7%, GDP
b́nh quân đầu người năm 2005 đạt 6,04 triệu
đồng/người. Cơ cấu kinh tế tiếp tục
chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá hiện
đại hoá; cơ cấu ngành trong cơ cấu chung của
nền kinh tế năm 2005 so với năm 2000 như sau:
Công nghiệp – xây dựng tăng từ 22,7% lên 30,0%; dịch
vụ tăng từ 33,2% lên 34,3%; nông – lâm – ngư nghiệp
giảm từ 44,1% xuống 35,7%.
Sản xuất nông – lâm –
ngư nghiệp phát triển tương đối toàn diện,
cơ cấu cây trồng vật nuôi có sự chuyển dịch
theo hướng sản xuất hàng hoá. Giá trị sản xuất
nông – lâm – ngư nghiệp tăng b́nh quân hàng năm 4,7%; việc
áp dụng các tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất
ngày càng nhiều và có hiệu quả; bước đầu
h́nh thành các vùng chuyên canh cây nguyên liệu phục vụ cho
công nghiệp chế biến (mía 18.045 ha, điều, 6.000
ha, sắn 10.565 ha); bảo đảm an ninh lương thực
trên địa bàn, nhất là khu vực miền núi, vùng
đồng bào dân tộc thiểu số. Chăn nuôi tiếp
tục phát triển, bước đầu h́nh thành các mô
h́nh kinh tế trang trại chăn nuôi ḅ đàn; đàn gia cầm
tuy có ảnh hưởng t́nh h́nh dịch bệnh chung của
cả nước, nhưng trong tỉnh không để xảy
ra dịch. Phong trào trồng cỏ chăn nuôi ḅ bước
đầu đem lại hiệu quả kinh tế, phát triển
ngày càng sâu rộng trong nhân dân. Việc sind hoá đàn ḅ
được đẩy mạnh. Đến cuối
năm 2005, tổng đàn ḅ có 201.642 con, trong đó ḅ lai
69.117 con, chiếm 34,3% tổng đàn. Công tác quản lư, bảo
vệ phát triển rừng được tăng cường,
huy động được nhiều nguồn lực tham
gia. Tỉnh tiến hành giao khoán, bảo vệ 27.487 ha rừng
cho nhân dân; trồng mới trên 16.000 ha rừng, 10 triệu
cây phân tán, góp phần nâng cao độ che phủ rừng
lên 36% diện tích. Kinh tế thuỷ sản tiếp tục
phát triển, số lượng tàu thuyền, sản lượng
khai thác, nuôi trồng thuỷ sản đều tăng. Giá
trị sản xuất thuỷ sản tăng b́nh quân
7,9%/năm, sản lượng nuôi trồng tăng b́nh quân
2,8% năm. Năm 2005, sản lượng thuỷ sản
khai thác tăng 28% so với năm 2000, trong đó cá ngừ
đại dương đạt 5.040 tấn.
Sản xuất công nghiệp
đạt mức tăng trưởng cao. Giá trị sản
xuất công nghiệp tăng b́nh quân hàng năm là 18,6%, trong
đó công nghiệp chế biến giữ được
nhịp độ tăng trưởng cao (19,9%/năm) và
chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu nội bộ
ngành (89,2%). Đă thu hút được nhiều doanh nghiệp
đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp - tiểu
thủ công nghiệp. Một số nhà máy mới được
xây dựng đi vào hoạt động như: Chế biến
thuỷ sản xuất khẩu, chế biến hạt
điều, gỗ xuất khẩu, đá Granit, đường
KCP, xí nghiệp dược…, góp phần giải quyết việc
làm, thu nhập cho người lao động, tạo nguồn
thu cho ngân sách, đồng thời tạo ra nhiều sản
phẩm có giá trị tiêu dùng và xuất khẩu. Tổng kim
ngạch các mặt hàng xuất khẩu từ công nghiệp
giai đoạn 2001-2005 đạt 136 triệu USD. H́nh thành 3
khu công nghiệp tập trung (Khu công nghiệp hoà Hiệp, An
Phú, Đông Bắc Sông Cầu) và một số điểm,
cụm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp ở các
địa phương.
Các ngành dịch vụ có
mức tăng trưởng khá. Giá trị các ngành
thương mại và dịch vụ tăng b́nh quân hàng
năm là 12,1%. Cơ cấu ngành dịch vụ có bước
chuyển biến tích cực theo hướng đáp ứng
ngày càng tốt hơn các nhu cầu đa dạng của sản
xuất, kinh doanh và tiêu dùng của nhân dân. Hoạt động xuất khẩu phát triển
tích cực, thị trường được mở rộng.
Tổng kim ngạch xuất khẩu trong 5 năm (2001-2005),
đạt 185,4 triệu USD, b́nh quân tăng hàng năm đạt
11,2%, trong đó hàng địa phương tham gia xuất
khẩu đạt 170,3 triệu USD, riêng năm 2005, đạt
56,8 triệu USD. Hoạt động
du lịch bước đầu có chuyển biến; từng
bước quy hoạch và đầu tư cơ sở hạ
tầng các khu du lịch, điểm du lịch; một số
dự án đầu tư cơ sở hạ tầng du lịch
đă và đang được triển khai xây dựng với
giá trị đầu tư mới trên 70 tỷ đồng,
tạo tiền đề cho phát triển du lịch những
năm tiếp theo. Vận tải
hàng hoá và vận chuyển hành khách phát triển mạnh,
đáp ứng nhu cầu lưu thông hàng hoá và đi lại của
nhân dân. Khối lượng vận tải hàng hoà tăng
b́nh quân 5,3%/năm. Dịch vụ
bưu chính viễn thông phát triển mạnh, 100% xă có
điện thoại đến trung tâm xă, tỷ lệ sử
dụng điện thoại đạt 10,7 máy/100 dân.
Thu ngân sách địa
phương tăng nhanh, tăng b́nh quân 13,2%/năm, đáp ứng
gần 70% nhu cầu chi thường xuyên của tỉnh.
Cơ cấu nguồn thu đă có những chuyển biến
tích cực. Các hoạt động tín dụng ngân hàng có nhiều
tiến bộ, góp phần phát triển kinh tế-xă hội
địa phương.
Về đầu tư
phát triển: Tổng vốn đầu tư toàn xă hội
trong 5 năm 2001-2005 đạt 9.487 tỷ đồng, tập
trung cho các công tŕnh trọng điểm về giao thông, thuỷ
lợi, điện, cấp thoát nước và xây dựng
cơ sở hạ tầng khu công nghiệp, trường học,
trạm xá… Đă hoàn thành xây dựng đưa vào khai thác
nhiều tuyến giao thông quan trọng như: ĐT645,
ĐT 641, ĐT 642, đường Hùng Vương, Quốc
lộ 25, đường tránh QL 1A và cầu Đà Rằng
mới; xây dựng kè chống ngập thành phố Tuy Hoà, chỉnh
trị cửa sông Đà Nông, đường khu công nghiệp
Hoà Hiệp – Vũng Rô; hoàn thành chương tŕnh điện
khí hoá nông thôn; đầu tư xây dựng đưa vào vận
hành 4 trạm biến áp 110/22 KV phục vụ các khu công nghiệp;
đưa sân bay Tuy Hoà, cảng Vũng Rô, cảng cá Tiên
Phước, Tiên Châu vào hoạt động. Nhiều dự
án giao thông quan trọng đang được triển khai:
Trục dọc miền Tây, tuyến Độc Lập -
Gành Đá Dĩa… Tiếp tục huy động nhiều nguồn
lực đầu tư đẩy mạnh bê tông hoá hè phố,
hẻm phố, kiên cố hoá giao thông nông thôn. Hoàn thành việc
xây dựng hồ chứa nước Xuân B́nh, hồ Đồng
Tṛn, nâng cấp hệ thống thuỷ nông Đồng Cam,
Tam Giang…; triển khai chương tŕnh kiên cố hóa kênh
mương, nâng cao năng lực tưới tiêu, bảo
đảm 56% diện tích gieo trồng có nước tưới.
Đầu tư nâng cấp, xây dựng mới một số
nhà máy cấp nước bảo đảm nhu cầu
nước sạch phục vụ các khu đô thị, khu
công nghiệp, khu dân cư tập trung.
Các thành phần kinh tế
tiếp tục phát triển và có bước chuyển dịch
tích cực về cơ cấu, bước đầu huy
động được tiềm năng và khơi dậy
các nguồn lực mới cho sự phát triển. Tỷ trọng
khu vực kinh tế Nhà nước trong cơ cấu thành
phần kinh tế giảm từ 30,7% (năm 2000) xuống
c̣n 27,8% (năm 2005), kinh tế ngoài quốc doanh tăng từ
68,78% lên 70,4%, kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài tăng từ 0,5% lên 1,8% đă góp phần quan trọng
vào việc giải quyết việc làm, tăng nguồn thu
cho ngân sách. Các doanh nghiệp Nhà nước tiếp tục
được sắp xếp, đổi mới. Kinh tế
tập thể được duy tŕ, phát triển và từng
bước nâng cao hiệu quả hoạt động. Kinh
tế tư nhân và hộ gia đ́nh được chú trọng
và tạo điều kiện thuận lợi để
phát triển.
Kinh tế - xă hội
trong tỉnh được phân vùng quy hoạch đầu
tư, phát triển đúng hướng, bước đầu
phát huy được tiềm năng và lợi thế của
từng vùng trong tỉnh, gắn quy hoạch phát triển
kinh tế - xă hội của tỉnh với quan hệ vùng
và lănh thổ của cả nước. Ở vùng miền núi, kinh tế - xă hội có
bước phát triển, đời sống đồng bào
được cải thiện. Từ năm 2001 đến
2005, tỉnh đầu tư cho phát triển miền núi
1.400 tỷ đồng. Đến cuối năm 2005, các xă
miền núi đặc biệt khó khăn đều có
điện, đường ô tô đến trung tâm xă; 100%
xă có trường tiểu học, trạm y tế, tại
các trung tâm cụm xă có trường cấp II bán trú, pḥng
khám đa khoa khu vực. Quy hoạch, xây dựng các nhà máy chế
biến, các cụm công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp
gắn với vùng nguyên liệu; h́nh thành các vùng chuyên
chăn nuôi ḅ tập trung theo kiểu kinh tế trang trại
sản xuất nông – lâm kết hợp. Trong quy hoạch vùng
miền núi của tỉnh luôn gắn quan hệ với hai
tỉnh Đắc Lắc, Gia lai và vùng Tây Nguyên. Ở vùng đồng bằng,
đă đầu tư phát triển khá đồng bộ kết
cấu hạ tầng vật chất kỹ thuật,
đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xă hội,
xây dựng nông thôn mới. Theo quy hoạch phát triển, vùng
đồng bằng tập trung thâm canh cây lương thực,
thực phẩm, chăn nuôi gia súc, gia cầm, trồng cây
công nghiệp ngắn ngày; xây dựng các cơ sở công
nghiệp và ngành nghề tiểu thủ công nghiệp. Làng
nghề truyền thống được phục hồi.
Thương mại và dịch vụ có bước phát triển.
Từng bước khắc phục có hiệu quả thế
thuần nông độc canh cây lúa và t́nh trạng lao động
nông thôn thiếu việc làm. Ở
vùng ven biển, cùng với việc quy hoạch, đầu
tư xây dựng cảng Vũng Rô, các khu công nghiệp tập
trung, các tuyến giao thông ven biển…, tỉnh chú trọng
xây dựng và phát triển các vùng kinh tế trọng điểm
của tỉnh gắn với sự phát triển chung của
khu vực Duyên hải Nam Trung bộ và Tây Nguyên. Kinh tế
thuỷ sản phát triển cả về khai thác, nuôi trồng
và chế biến; bước đầu h́nh thành các khu công
nghiệp tập trung ven biển, các cơ sở dịch vụ
du lịch biển, du lịch sinh thái. Đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên
một bước.
Bên cạnh việc tập
trung xây dựng và phát triển kinh tế, tỉnh cũng
chú trọng phát triển văn hoá – xă hội và giải quyết
các vấn đề xă hội nên đạt được
những thành tựu đáng phấn khởi. Trên lĩnh vực giáo dục –
đào tạo: Công tác xă hội hoá giáo dục được
đẩy mạnh; đa dạng hoá các loại h́nh trường
lớp, các loại h́nh đào tạo, đáp ứng tốt
hơn nhu cầu học tập và phát triển nguồn nhân
lực. Giữ vững chuẩn quốc gia về phổ cập
giáo dục tiểu học đúng độ tuổi. Đến
năm học 2005-2006, có 94/106 xă phường, thị trấn
trong tỉnh hoàn thành phổ cập trung học cơ sở.
Cơ sở vật chất các trường học từng
bước được trang bị, nâng cấp, kiên cố
hoá trường học theo chuẩn quốc gia, đảm
bảo yêu cầu nâng cao chất lượng giáo dục –
đào tạo. Công tác đào tạo, bồi dưỡng nghề
cho người lao động được tăng cường,
tỷ lệ lao động qua đào tạo ngày càng
tăng, từ 16% năm 2000 lên 23,5% năm 2005. Hoạt động khoa học –
công nghệ có nhiều tiến bộ, đă chú trọng
nâng cao chất lượng các đề tài, dự án phục
vụ yêu cầu sản xuất và đời sống. Tŕnh
độ công nghệ của một số ngành sản xuất,
xây dựng, dịch vụ… được nâng lên và từng
bước đổi mới. Công
tác bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ nhân dân có tiến
bộ. Các cơ sở y tế từng bước
được đầu tư nâng cấp cả về
cơ sở vật chất, trang thiết bị và nhân lực.
Đến cuối năm 2005, 100% xă, phường, thị
trấn có trạm y tế hoạt động; hơn 80% số
trạm y tế có bác sỹ, 100% thôn buôn có nhân viên y tế
hoạt động; cơ bản thanh toán bệnh mù loà do
đục thuỷ tinh thể, 70% trẻ em con hộ nghèo,
trẻ em khuyết tật, có hoàn cảnh đặc biệt
khó khăn được trợ giúp về chăm sóc y tế.
Hoạt động văn hoá –
thông tin, thể dục - thể thao, báo chí, phát thanh, truyền
h́nh có bước phát triển, chất lượng hoạt
động được nâng lên, phục vụ tốt
hơn nhiệm vụ chính trị ở địa
phương. Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hoá được đẩy mạnh, đă
có 74,4% số hộ gia đ́nh, 54,2 thôn, buôn, khu phố
được công nhận gia đ́nh văn hoá, đơn
vị văn hoá. Báo Phú Yên, Đài phát thanh, Trung tâm truyền
h́nh Việt Nam tại Phú Yên được đầu
tư nâng cấp, nâng cao chất lượng. 100% xă, phường,
thị trấn có hệ thống đài truyền thanh, trên
80% hộ dân có phương tiện nghe nh́n. Hoạt động
thể dục thể thao quần chúng phát triển mạnh,
phong trào tập luyện thể dục thể thao thường
xuyên đạt 17,9% dân số. Công
tác giải quyết việc làm được quan tâm,
đạt kết quả đáng kể, b́nh quân hàng năm
giải quyết việc làm cho 2,3 vạn người; triển
khai chương tŕnh xuất khẩu lao động đạt
kết quả bước đầu. Số hộ nghèo mỗi
năm giảm b́nh quân 2%, từ 15,3% năm 2000 giảm c̣n
5,1% năm 2005. Các hộ nghèo vùng đồng bào dân tộc
thiểu số, hộ chính sách được hỗ trợ
xây dựng nhà ở, cơ bản hoàn thành xoá nhà tạm hộ
nghèo giai đoạn 1. Công tác cứu trợ xă hội,
chăm lo các đối tượng chính được
quan tâm tốt hơn. Công tác pḥng chống tệ nạn xă hội
cũng được các cấp, các ngành và nhân dân quan tâm.
Về công tác quốc
pḥng – an ninh, tỉnh chủ động triển khai các chủ
trương biện pháp tăng cường quốc pḥng –
an ninh theo tinh thần Nghị quyết 08 của Bộ Chính
trị khoá VIII về chiến lực an ninh quốc gia, Nghị
quyết Hội nghị Trung ương 8 khoá IX về bảo
vệ Tổ quốc trong t́nh h́nh mới, Nghị quyết
09, Nghị quyết 13 của Chính phủ về
chương tŕnh quốc gia pḥng chống tội phạm,
chương tŕnh pḥng chống ma tuư, đảm bảo trật
tự an toàn giao thông, nhờ đó an ninh chính trị, trật
tự an toàn xă hội trên địa bàn tỉnh được
giữ vững. Phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ
quốc, tham gia bảo vệ chủ quyền vùng biển
được phát huy, phát triển rộng khắp. Thế
trận quốc pḥng toàn dân gắn với thế trận
an ninh nhân dân được củng cố, nhất là các
địa bàn trọng yếu về kinh tế, chính trị.
Tiềm lực quốc pḥng – an ninh trong khu vực pḥng thủ
của tỉnh và các địa phương được
tăng cường. Các lực lượng vũ trang nhân
dân trong tỉnh được xây dựng theo hướng
chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại,
phù hợp với t́nh h́nh và nhiệm vụ mới; chất
lượng tổng hợp và khả năng sẵn sàng chiến
đấu từng bước được nâng cao. An
ninh miền núi và tuyến biển được đảm
bảo. Đă ngăn chặn, vô hiệu hoá kịp thời
và có kết quả không để bọn Fulro, Tin lành Đề
ga xâm nhập vào vùng đồng bào dân tộc thiểu số
ở các huyện miền núi. Công tác tấn công, trấn áp
các loại tội phạm, giữ ǵn trật tự công cộng
và giải quyết các tệ nạn xă hội đạt kết
quả, trật tự an toàn giao thông có tiến bộ.
*
* *
Thực tiễn phong phú
và sinh động của phong trào cách mạng ở Phú Yên từ
năm 1975 đến năm 2005 cả về thành tựu cũng
như hạn chế đă để lại cho Đảng
bộ nhiều bài học kinh nghiệm quư báu. Bước
đầu rút ra một số bài học sau:
Một là: Thường
xuyên làm cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân
quán triệt chủ trương, đường lối,
chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Phát huy truyền thống yêu nước, tinh thần tự
lực, tự cường, năng động, sáng tạo,
quyết tâm vượt qua mọi khó khăn thách thức.
Hai là: Phải coi sự
gắn bó mật thiết của nhân dân đối với
sự lănh đạo của Đảng và quản lư của
Nhà nước là nhân tố quyết định mọi sự
thành công.
Ba là: Thường xuyên
coi trọng công tác tổ chức, công tác đào tạo cán bộ
lănh đạo, quản lư; bồi dưỡng đồng
bộ cán bộ lănh đạo quản lư ở cơ sở.
Chú trọng xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ
lănh đạo có chất lượng cao và đồng bộ,
đảm bảo ngang tầm với yêu cầu của sự
phát triển.
Bốn là: Biết tranh
thủ sự viện trợ, giúp đỡ của Trung
ương Đảng và Chính phủ; của các tỉnh
thành trên cả nước. Thiết lập các mối quan hệ
với Việt kiều người địa
phương đang sinh sống, làm ăn ở nước
ngoài, kể cả các đối tác nước ngoài; hội
đồng hương Phú Yên ở các thành phố lớn
để kêu gọi sự đóng góp vốn, khoa học,
công nghệ phục vụ cho sự phát triển của tỉnh
nhà.
Mặc
dù c̣n có những hạn chế, thiếu sót, nhưng những
thành tựu to lớn mà toàn Đảng bộ, toàn quân, toàn
dân Phú Yên đạt được trong 30 năm qua là tiền
đề vật chất và tinh thần hết sức quan
trọng để Phú Yên tiếp tục phát triển, đẩy
nhanh tốc độ công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, phấn đấu đến năm 2020 Phú Yên trở
thành một tỉnh công nghiệp - dịch vụ, sánh vai với
các tỉnh, thành trong cả nước.
Dương Thái Nhơn(*)
Phú Yên là một
tỉnh thuộc vùng Duyên Hải miền Nam Trung Bộ, có tọa
độ địa lư: 12053 - 13014' vĩ
độ Bắc; 108037' - l 09013' kinh độ
Đông, phía Bắc giáp tỉnh Đ́nh Định, Nam giáp tỉnh
Khánh Hoà, Tây giáp tỉnh ĐắcLắc và Gia Lai và Đông
giáp biển Đông. Nguyên xưa là đất Việt
Thường. Đời nhà Tần (Trung Quốc) thuộc
về Tượng Quận, đời nhà Hán thuộc quận
Nhật
Với đặc điểm
của một vùng đất như vậy, tôi xin thống
kê lại biên niên sử của Phú Yên được bắt
đầu từ năm 1611 để bạn đọc gần
xa tham khảo:
-Năm
1611 (Tân Hợi)
·
Chúa Nguyễn đặt phủ Phú
Yên, cho 2 huyện Đồng Xuân và Tuy Hoà thuộc vào.
Văn Phong làm Lưu Thủ.
-Năm 1648 (Mậu Tư)
·
Trận chiến
trên sông Nhật Lệ (2/1648) quân Trịnh thua. Thế tử
Dũng Hiền dâng chiến tù và chúa Nguyễn lệnh cho
đưa tù binh từ Thăng b́nh Điện bàn đến
Phú Yên chia tan số tù binh ra cho ở các nội; cứ 50
người làm một ấp, đều cấp cho
lương ăn nửa năm, nhà giàu bỏ thóc cho họ
vay và cho họ t́m lấy lợi núi đầm mà sinh sống
làng mạc liền nhau, về sau thành hộ khẩu.
-Năm 1708 (Mậu Tư)
·
Chúa Nguyễn
sai quan đặt một trường duyệt tuyển
quân lớn ở Phú Yên
-Năm 1720 (Canh Tư)
·
Sai Văn chức
Nguyễn Đăng Khoa chia lập các ấp các thuộc ở
Quảng Ngăi và Phú Yên
-Năm 1726 (Bính Ngọ)
· Tháng 4/1726, sai Kư lục chính
dinh là Nguyễn Đăng Đệ đi tuần tra các phủ
và định rơ chức lệ cho các thuộc mới lập.
Hễ những nơi gần núi, ven biển th́ lập làm
thuộc. Phú Yên có 38 thuộc
-Năm 1751 (Tân Mùi)
·
Tháng 10/1751 Thủy
Xá và Hoả Xá vào cống lễ vật cho Triều đ́nh
(hành dinh đặt tại Phú Yên). Hai nước ở phía
trên nước Nam Bàn, Thủy Xá ở phía Đông núi, Hoả
Xá ở phía Tây núi. Buổi quốc sơ, v́ họ giáp với
Phú Yên, cứ 5 năm một lần sai người đến
các nước ấy cho quà (áo gấm, mũ, nồi đồng,
chảo sắt, và chén đĩa bằng sứ).
-Năm 1771 (Tân Măo)
·
Tháng 12/1771 lấy
Cai đội dinh Phú Yên là Nguyễn Vân làm Trấn thủ
dinh B́nh Khang.
·
Núi Thạch Bi ở
Phú Yên bị sét đánh, đá đen ở núi đều hoá
ra trắng cả, xa trông như bia đá dựng đứng,
sắc như tro trắng. Chúa sai làm lễ Đảo.
·
Thuyền chúa
Nguyễn đóng ở cửa biển Xuân Đài. Sai Vơ Tánh
đem quân đánh La Thai (La Hai). Tham đốc quân Tây Sơn
là Phạm Văn Điềm thua chạy. Nguyễn Ánh lấy
lại được phủ Phú Yên. Chúa Nguyễn thưởng
cho tướng sĩ 300 quan tiền, 150 áo chiến, sai
đặt bảo ở Hội An, lượng để
quân pḥng thủ.
·
Đặt quan
công đến dinh Phú Yên, lấy Nguyễn Văn Nhân làm
Lưu thủ, lấy Nguyễn Y Mân làm Cai bạ. Văn
Giáp tham mưu là Nguyễn Văn Diệu làm Kư lục.
- Năm 1793
·
Tháng 8 năm
1793 Sai Lưu thủ Nguyễn Văn Nhân trở về Phú
Yên, đắp bảo Lao Thai, dựng kho tạm trữ thóc
thuế để sẵn lương thực cho quân. Triệu
tham tri H́nh bộ hành Cai bạ B́nh Khang là Lê Đăng Khoa
đến hành tại. Lấy Cai bạ Phú Yên là Nguyễn Y
Mẫn làm Cai bạ B́nh Khang.
·
Tháng 9/1793 Thuyền
chúa Nguyễn từ cửa Thị Nại về đóng ở
cửa Xuân Đài. Vơ Tánh, Nguyễn Văn Trương đều
đem thủy binh đi theo. Tôn Thất Hội lấy bộ
binh ở lại trấn thủ Phú Yên. Nguyễn Hoàng Đức
quản 2 chi Tuề Oai và Kiến Vơ giữ trung đạo
La
- Năm 1794 (Giáp Dần)
· Tháng 3/1794 Tướng Tây
Sơn Nguyễn Văn Hùng đem 40.000 quân bộ đánh lấy
Phú Yên, Lưu thủ Nguyễn Văn Nhân chạy báo cho Diên
Khánh Đông cung ra lệnh cố giữ để chờ
viện binh.
· Tháng 5/1794 Thuyền chúa Nguyễn
tiến đóng ở cửa biển Xuân Đài.
·
Tháng 10/1794, quân
Tây Sơn do Trần Quang Diệu và Lê Trung chỉ huy đánh
lấy Phú Yên.
- Năm 1796 (Bính Th́n)
·
Tháng 10/1796, sai Khâm
sai Cai cơ hành Lưu thủ Phú Yên là Nguyễn Đức
Trinh quản đạo Hưng Phúc.
- Năm 1797 (Đinh Tỵ)
·
Mùa hạ
năm 1797 Vũ Tính cùng Nguyễn Văn Thành đánh lấy
được bảo Hội An (Phú Yên). Được lệnh
chúa Nguyễn đánh lấy luôn đồn La
- Năm 1798 (Mậu Ngọ)
·
Tháng 11/1798 Nguyễn
Ánh sai Chưởng dinh Tiên phong Nguyễn Văn Thành và Đặng
Trần Thường đem quân đóng ở sông Đà Diễn
thuộc Phú Yên.
- Năm
1799 (Kỷ Mùi)
·
Thuyền Nguyễn
Ánh đóng ở đầm Cù Mông sai Nguyễn Văn Thành
điều bát bộ binh từ Xuân Đài tiến đến
Hội An, vượt qua ngọn núi Ải Thạch đánh
với Tây Sơn ở tại núi Tam Tháp. Tây Sơn lui. Nguyễn
Văn Thành đánh với Tây Sơn ở đồn An Mỹ.
Tham đốc là Phạm Văn Điềm hàng, thu phục
được Phú Yên. Hoàng Diệu sai Đào Công Giản Tuấn
vào Phú Yên cùng Phạm Văn Điềm bố trí quân ở
Phú Yên hơn 90 cơ sở để chặn đánh quân của
Nguyễn Văn Thành. Nguyễn Văn Thành kéo đại
quân từ Xuân Đài lên gặp quân Tây Sơn và đánh nhau tại
Xích Thổ Thanh Kỳ (đều tên đất). Tuấn
thua, Thành đánh thẳng Hội An. Tuấn chạy về
núi Ải Thạch. Thành đánh núi Ải Thạch rồi
đến núi Ngư Cốt (xương cá) Tuấn lui về
giữ La Thai. Thành đánh lấy La Thai.
· Tháng 4/1799, sai Nguyễn
Văn Thành thống quản tướng sĩ Tiền quân
kiêm dinh Tiên phong và 5 cơ voi thuộc vệ Hùng Vơ quân Thần
sách. Cùng cả quân Xiêm tiến lấy Phú Yên. Nguyễn
Văn Thành đánh bảo Hội An của Tây Sơn, Tham
đốc Tây Sơn là Phạm Văn Điềm đầu
hàng. Thu phục được dinh Phú Yên.
·
Tháng 5/1799 Đặt
quan công đường dinh Phú Yên, lấy Hiệu kư Tả
Chí Trung quân là Hồ Đức Vạn làm Lưu thủ. Trần
Minh Đức làm Cai bạ, Vơ Đức Thông làm Kư lục
(Đức Thông là người Phú Yên).
·
Tháng 6/1799 Quản
vệ Phấn Dực là Tống Phước Lương
đánh phá được thống binh giặc biển là
Phan Văn Tài ở cửa biển Kim Bồng, đuổi
đến Phú Yên lại đánh được. Trước
là Tây Sơn chiêu nạp bọn đầu sỏ giặc biển,
trao cho chức thống binh, muốn lợi dụng cái nghề
thủy chiến của họ để chống quân Chúa
Nguyễn.
·
Trưng dụng
thợ đúc, thợ bạc ở các dinh Phú Yên, B́nh Khang,
B́nh Thuận, họp cả về Gia Định để
đúc súng ống và binh khí.
·
Tháng 11/1799, Chúa
Nguyễn sai các dinh B́nh Thuận, Phú Yên... đo đường
sá xa gần để tâu lên chúa Nguyễn: Phú Yên từ
đỉnh núi Cù Mông đến mốc giới đỉnh
đèo Đại Lănh dài hơn 20. 737 trượng).
-Năm
1800 (Canh Thân)
Thuyền
Chúa Nguyễn tiến đóng ở Vụng Na (La), Tỉnh
Phú Yên
·
Tháng 4 nhuận/1800
lấy Chánh Trưởng chi Hữu chi Thiện Vơ dinh Tiên
phong là Phạm Tiến Tuấn làm Lưu thủ Phú Yên. Thuyền
chúa Nguyễn đến Tích Áo (Vũng Tích) (thuộc tỉnh
Phú Yên).
·
Tháng 8/1800 sai Cai
cơ đội Vơ Dũng lạc ṭng quân thần sách là Nguyễn
Văn Yển đi chở 16.000 quan tiền ở Diên Khánh
đến quân thứ Cù Mông.
·
Tháng 9/1800 Chúa
Nguyễn dừng tại Nan Dữ [Ḥn Nan] (ở trong cửa
biển Cù Mông).
- Năm 1801 (Tân Dậu)
·
Tháng 1/1801 Chúa
Nguyễn dừng ở hành tại Ḥn nan. Ban phát quân phục
cho các quan. Băi bỏ sưu ruộng ở Phú Yên. Cấp tiền
cho tướng sĩ các quân bị thương ở mặt
trận lưu dưỡng ở Phú Yên theo thứ bậc
khác nhau (phó vệ 5 quan, cai đội 3 quan, phó đội 2
quan, lính 1 quan). Sai Lưu Phạm Văn Nhân giữ Cai bạ
Phú Yên là Trần Minh Đức khỏi bệnh cho làm việc
dinh như cũ. Miễn thu gạo giúp của các hạng
dân biệt rạp, biệt Tích ở Phú Yên. Số quân ở
Phú Yên c̣n ít, sai dinh thần cư trong hạt ai t́nh nguyện
làm lính th́ không kể là quân trung nghĩa cũ hay là dân thuê nạp
đều cho gọi đến lập thành đội ngũ
lệ theo sai phái.
·
Tháng 11/1801 từ
Phú Yên, Quy Nhơn đến Thuận Hóa, thẳng tới
Hoành Sơn, đều đă thuộc vào đồ bản
(đất của nhà Chúa Nguyễn).
-Năm 1802 (Nhâm Tuất)
·
Phú Yên dựng
miếu công thần. Nguyễn Ánh chiếu rằng "khoảng các năm Kỷ
mùi, Canh thân, trải bao năm dụng binh, các tướng sĩ
theo trẫm ở Phú Yên và B́nh Định, hoặc cư giữ
cô thành mà chết tiết nghĩa. Vậy ta hạ lệnh
cho hai dinh lập miếu thờ". Trấn Phú Yên dựng
miếu ở Ḥn Nan(Vụng) Cù mông để thờ Mai
Đức Nghị và những người chết trận,
chết bệnh từ Thị Dă đến Phú Yên, cả thảy
526 người. Ở gian chính thờ 5 người: Thần
sách quân hậu dinh đô thống chế tăng thiếu bảo
quận công Mai Đức Nghi. Ở gian tả nhất thờ
57 người. Ở gian hữu nhất thờ 57 người.
Ở gian tả nhị thờ 70 người. Ở gian hữu
nhi thờ 70 người. Nhà bên Đông thờ 134 người.
Nhà bên Tây thờ 133 người.
-Năm 1812 (Nhâm Thân). Gia Long thứ 11
Gia Long có chiếu chỉ
năm Quí Dậu (1813) mở khoa thi Hương ở
trường B́nh Định cho học tṛ Quảng Ngăi, B́nh
Định, Phú Yên, B́nh Hoà họp thi. Học tṛ đến
thi đều được cấp lương đi
đường.
·
Tháng 9 năm 1812
đắp thành đất ở Phú Yên.
-Năm 1819 (Kỷ Măo) Gia Long thứ 18
·
Bộ Hộ
báo cáo Phú Yên số đinh hơn 5000 người. Công tư
điền thổ hơn 49. 600 mẫu
·
Tháng 11 năm
1819 ở Phú Yên có tiếng trống trời (giờ Dậu
ngày hôm ấy, trời không có mưa gió chợt nghe trên không
có một tiếng như sấm từ Cù Mông trở vào, từ
Đại lănh trở ra, đầu nguồn cửa biển,
cửa nhà quan dân, không chỗ nào là không chuyển động,
phút chốc th́ thôi)
-Năm 1820 (Canh Th́n) Minh Mạng thứ 1
·
Sai biền binh
thuỷ quân đem thuyền hiệu, thuyền ô, thuyền
lệ đi chở gỗ cây, đá phiến cùng tiền và
sản vật nhà nước ở Phú Yên đem nộp về
kinh. Bắt đầu đặt 4 dinh: Thần cơ, Tiền
phong, Long vơ, Hổ oai quân thị nội. Mỗi dinh đều
5 Vệ. Ở Phú Yên đội Thắng súng thuộc dinh Thần
cơ
·
Tháng 5 năm
1820 định ngạch thuộc lại cho Phú Yên. Phú Yên chỉ
có hơn 5000 người nên ngạch thuộc lại: Tả
thừa ty: 1 người; Hữu thừa ty: 1 người;
Câu kê: 1 người; Cai họp: 1 người; Thủ họp:
3 người; Thư lại: 25 người
-Năm 1821 (Tân Tị) Minh Mạng thứ 2
·
Tháng 5 năm
1821, Thuỷ Xá xin phụ thuộc vào nước ta. Đầu
đời Gia Long Quốc trương nước ấy
sai sứ đến Phú Yên xin quy phục. Thế Tổ cho
nhiều gấm vóc, lụa rồi bảo về. Đến
nay sai người mang đồ vật được cho
trước kia là cồng thau, sáp ong làm tin đến Bảo
Phước Sơn, xin cho sứ được thông hành vào
cống. Trấn thần tâu lên. Vua y cho.
-Năm1822 (Nhâm Ngọ) Minh Mạng thứ 3
·
Tháng 3 năm
1822 Trấn Phú Yên được đặt thêm chức
Đốc học, ở Phủ được đặt
một Giáo thụ hàm chánh thất phẩm, huyện đặt
một Huấn đạo hàm Chánh bát phẩm. Sai Lang trung Hộ
Bộ Trương Thừa Huy đem các bộ, ty đi
thanh tra ở Phú Yên. Dời văn miếu trấn Phú Yên
đến Xuân Sơn. Trấn thần thấy miếu cũ
địa thế chật hẹp, gỗ ván đă mọt
nát, xin dời về đây. Vua chuẩn y theo lời.
·
Tháng 4 năm
1822, lấy Kư lục Quảng B́nh Lê Văn Quảng làm Kư lục
Phú Yên. Định ngạch tượng cục ở Phú Yên
355 người. Lấy số ngạch năm nay làm chuẩn.
Định niên khoá duyệt tuyển ở Phú Yên lấy
năm Mậu, năm Quí làm lệ duyệt tuyển măi măi.
·
Tháng 9 năm
1822, đổi tên trạm ở Phú Yên 6 trạm: Phú B́nh, Phú
Khê, Phú Đường, Phú Tân, Phú Vinh, Phú Đê.
·
Phú Yên mưa lụt,
băi cát ở cửa biển cũ Phú Sơn vỡ thành cửa
biển mới (từ bờ phía Bắc cửa mới
đến phía Nam rộng 24 trượng, 7 thước,
sâu 1 trượng, 1 thước, 1 tấc. Dài 64 trượng,
5 thước cách cửa cũ 1.010 trượng)
- Năm 1823 (Quí Mùi) Minh Mạng thứ 4
·
Tháng 3 năm
1823 người thôn Diêm Điền thuộc huyện Đồng
Xuân, Trấn Phú Yên là Nguyễn Văn Tựu có hiếu hạnh,
để tang cha mẹ, làng mạc đều khen. Trấn
thần hỏi được sự trạng tâu lên. Vua nói
"có người con hiếu
như thế chính phải nên thưởng để khuyến
khích phong hoá. Chuẩn cho Bộ lễ bàn cấp biền ngạch
khắc bốn chữ "hiếu thuận khả
phong". Nết hiếu thuận có thể làm phong thanh
để giáo hoá”. Bắt đầu đặt chức
Đốc học ở Phú Yên. Và lấy Tri phủ Ninh giang
là Phạm Vũ Phác làm Đốc học Phú Yên.
- Năm 1824 (Giáp Thân)
·
Tháng 1 năm
1824 Chở 50.000 quan tiền kẽm ở kho kinh đến
Phú Yên
·
Sông Bàn Thạch
ở Phú Yên có cá sấu lớn thường làm hại dân,
dân bắt được trấn thần cho là cá sấu hại
người c̣n hơn cọp, xin thưởng 30 quan tiền
cũng như lệ bắt được cọp. Vua y
cho. Sắc từ sau có việc giống như thế, th́
chiếu lệ mà thưởng. Đổi trạm Phú
Đê ở Phú Yên làm trạm Phú Thịnh. Trước kia trạm
Phú Đê đặt ở Thạch Đê, xa cách dân cư, trấn
thần xin chọn nơi khác, dời đặt ở xă
Quan Định, nhân đổi tên trạm như thế.
·
Tháng 10 năm
1824 tŕnh hạn thư, bắt đầu từ ngày tiếp
công văn của bộ đến Phú Yên 60 ngày. Trái hạn
th́ chiếu luật để chậm trễ văn thư
công mà xử đoán.
·
Đúc ấn
"Tuyển trường " và dấu kiềm bằng
ngà cho trấn Phú Yên mỗi thứ 1 cái.
-Năm 1825 (Ất Dậu) - Minh Mạng thứ 6
·
Lấy Đốc học Phú Yên là
Phạm Vũ Phác làm Thiệm sự Bỗ lễ. Tri phủ
Đoan Hùng là Bùi Tuấn Tuyển làm Đốc học Phú
Yên.
-Năm 1826 -
Minh Mạng thứ 7
·
Đặt chức
Tri phủ Phú Yên
-Năm 1828 (Mậu Tư) Minh Mạng thứ 9
·
Tháng 4 năm
1828 Lấy Đốc học Phú Yên là Lê Nguyên Trung làm Viên ngoại
lang Hộ bộ thự lang trung. Giáo thụ Thái b́nh là
Đào Xuân Sảng làm Thự đốc học Phú Yên. Định
giá cước tải lương từ Phú Yên đến
kinh mỗi thúng thóc là 57 phương, 9 thúng th́ cấp 1 quan
8 tiền.
·
Tháng 9 năm
1828 Đổi các đội cường súng ở Phú Yên
làm Trấn binh Trấn Phú Yên chiếu nguyên ngạch xếp
thứ tự các đội nhất nhị tam tứ ngũ
lục.
-Năm 1829 (Kỷ Sửu) - Minh Mạng thứ 10
·
Tháng 3 năm
1829, Thuỷ Xá sai sứ đến thông khoán. Trước
là năm Minh Mạng thứ 2 Quốc trưởng Ma Ất
sai sứ tới thành Phước Sơn, trấn Phú Yên xin
cống. Giới hạn Hoả Xá: Đông giáp thuộc man
Phú Yên; Tây giáp nước Lèo; Nam giáp thuộc man B́nh Hoà; Bắc
giáp thuộc man B́nh Định. Bộ Hộ tâu dâng sổ
tổng kê về hộ khẩu Phú Yên có 5.963 người.
Định lại danh hiệu ngạch tương binh ở
Phú Yên biền binh 50 người, voi 7 thớt và gọi là
cơ phú tượng
- Năm 1830 (Canh Dần)-Minh Mạng thứ 11
·
. Định lệ
trao cờ bắn súng các hạng thuyền công sai vận tải
tầm thường hay đi lại qua đường biển
Phú Yên không phải treo cờ bắn súng.
·
Tháng 3 năm
1830, đặt Bộ Trầm hương ở Phú Yên, sai mộ
dân ngoại tịch sung vào (lấy 30 người làm định
ngạch, mỗi người hàng năm nộp thuế một
cây trầm hương, phàm lấy được kỳ
nam phải đem nạp hết vào quan, tính trừ vào thuế.
Ai giấu bớt th́ phạt roi.
-Năm 1831 (Tân măo) - Minh Mạng thứ 12
·
Định lại
lệ thuế thuyền buôn của ngoại quốc ở
Phú Yên giảm 2/10. Định lệ về bạc chứa
ở kho Phú Yên 2000 lạng. C̣n dư ra đến gấp
đôi trở lên th́ nộp hết về kinh.
·
Tháng 4 năm
1831, lại sai các trấn Quảng Nam, Quảng Ngăi, B́nh
Định, Phú Yên, B́nh Hoà đều chọn mua thứ ngựa
trắng tốt, độ 2, 3 con để lựa chọn
vào chuồng ngựa Thiên nhân. Thăng giáo thụ Nam Sách Phạm
Gia Lâm lên Thự đốc học Phú Yên. Đổi Phủ
Phú Yên làm Phủ Tuy An.
- Năm 1832
·
Tháng 1/1832
thưởng tiền và gạo 6 tháng cho 6 trạm ở Phú
Yên bắt đầu từ tháng giêng. Mỗi tháng cấp tiền
40 quan, gạo 25 phương.
·
Trấn Phú Yên dựng
1 nhà chăn nuôi tằm chọn đất trồng dâu.
Mượn người sung vào làm tằm mẫu, tằm phụ
để giữ việc nuôi tằm. Mỗi năm đến
tháng giêng (
·
Ở Phú Yên nếu
quân và dân có hội nhóm họp, phường chèo, phường
để biểu diễn th́ cho phép những người
trong các đội được thu lấy 1/10 trong số
tiền thẻ thưởng mà người ca hát đă
được.
·
Tỉnh Phú Yên:
thống trị 1 phủ Tuy An và 2 huyện Đồng Xuân,
Tuy Hoà. Đặt quan chức ở Phú Yên: Tổng đốc
kiêm làm việc Tuần Phủ. Bố Chính, Án sát. Hai ty Bố,
Án mỗi ty có 1 Thông phán và 1 Kinh lịch. Đặt 1 lănh
binh quan (dùng quan tùng tam phẩm). Lănh binh quan Phú Yên chuyên coi
cơ Phú tráng, cơ Phú Yên, cơ Phú tượng, cơ An
man, kiểm quản thủy cơ Phú Yên. Cơ Phú tráng Phú
Yên c̣n thiếu sẽ nói sau. Quan phủ thiên - trường
là Nguyễn Hữu Vi cho làm Phó vệ úy, trật tùng tam phẩm,
sinh lănh binh quan Phú Yên.
·
Quốc trưởng
nước Nhă Di Lư (nước này ở tây
dương hoặc gọi là Hoa Kỳ, hoặc gọi là
Na Ly Càn, hoặc gọi là Anh Cát Lợi mới đều
là biệt hiệu nước ấy) sai bọn bề tôi
là Nghĩa - Đức - Môn La - Bách đại, Uy đức
- giai - tâm - gia (tên của 2 người) đem quốc
thư xin thông thương thuyền ở cửa Vũng Lấm
thuộc Phú Yên. Vua sai viên ngoại Lang Nguyễn Tri
Phương tư vụ Lư Văn Phúc đi hội cùng với
quan tỉnh lên trên thuyền thết tiệc và nói với họ
từ nay có đến buôn bán th́ cho đỗ ở vịnh
Trà Sơn, tấn sở Đà Nẵng. Bỏ bớt chức
Đốc học ở Phú Yên. V́ số học tṛ tỉnh
Phú Yên có ít, nên bỏ Đốc học, đặt 1 Giáo thụ
giảng dạy ở trường tỉnh. Phàm có việc
học tập, khảo hạch vấn theo lệ, làm
như trước.
·
Chọn 39 Sở
là những nơi nhiều việc và nặng nề hơn
cả, chuẩn cho viên coi giữ, được theo phẩm
hàm chi lương bổng: Phú Yên 2 sở: Cù Mông, Vũng Lấm.
Những phủ trung khuyết hoặc giảm khuyết
đặt 1 tri phủ: Tri phủ Tuy An, kiêm lư huyện
Đồng Xuân, thống hạt huyện Tuy Hoà.
-
Năm 1833 (Quư Tỵ) - Minh Mạng thứ 14
·
Tháng 1/1833 lại
truyền dụ cho Phú Yên phái 1 quản cơ và 200 biền
binh, vào ngay Phiên An theo Lê Phúc Bảo sai phái. Các quan quân đi
trận ấy đều thưởng trước cho tiền
lương 1 tháng. Tháng 11/1833 Thủ án sát Phú Yên là Phùng Huy Giảng
chết.
·
Cho viên ngoại
lang Bộ H́nh là Vũ Đức Mẫn thăng thự án
sát Phú Yên. Cấp cho Phú Yên 1 hàm thứ hiệu. Chiếu theo
lệ các thành, trấn trước xếp, cơ đội
lẻ tẻ ở Phú Yên thành Thủy cơ. Sai các tỉnh...
Phú Yên: điều chế 1.000 ống phun lửa. Phái những
biền binh trong cơ thần cơ Tiền vệ thông thạo
pháp chế ống ấy, chia nhau đi chỉ bảo. Lại
sai các tỉnh... Phú Yên điều chế thêm 1.000 ống
phun lửa.
·
Tỉnh Phú Yên
có bệnh dịch, nhân dân bị truyền nhiễm, chết
hơn 5.000 người.
·
Tháng 12/1833,
đặt các vệ ủy dơng ở B́nh Định và Phú
Yên. Bốn vệ Phú Yên: 500 người gọi là Nghị
vơ vệ. Mỗi vệ 10 đội, mỗi đội 50
người, mỗi đội có 1 người làm đầu
mục, cấp cho văn bằng làm ngoại uỷ suất
đội. Trong vệ có 1 người làm cai tổng cấp
cho văn bằng ngoại ủy phó vệ, cấp cho khí giới
lương bỗng, tiền, gạo. (Ngoại ủy phó vệ
lương 3 quan tiền/tháng, 1 phương gạo/tháng.
Ngoại ủy suất đội lương mỗi tháng
1 quan tiền, 1 phương gạo Hương dơng. Tha thuế
thân năm ấy cho vệ nghị vơ ở Phú Yên. Sai hữu
tư may cờ cấp cho vệ nghị vơ ở Phú Yên. 1 lá
cờ cơ đuôi nheo 20 lá. Các vệ ở Phú Yên phải
gọi đến đông đủ vào ngày 19 tháng này để
thao diễn pḥng khi cần dùng. Truyền lệnh cho Phú Yên tải
15. 000 hộc thóc kho đem đến trữ ở Khánh Hoà.
Năm trước đă dự khoá lệ: Tỉnh Phú Yên thủy
cơ 3 đội. Ư theo năm trước không dự khoá
lệ tỉnh Phú Yên 3 đội cơ Phú Tráng (giảm
điểm). 1 đội cơ Phú tương, 4 đội
cơ Phú Yên và đội pháo thủ (triệu mo). Sai Phú Yên
chế tạo 1. 000 cây tráng thương.
-Năm 1834 (Giáp
Ngọ) - Minh Mạng thứ 15
· Định lệ thi Hương
Trường Thừa Thiền, sĩ tử các tỉnh từ
Quảng B́nh đến Nam Phú Yên. Sai thủy quân chuyển vận
súng lớn, súng nhỏ, diêm tiêu, lưu hoàng đi phát cho...
Phú Yên 300 cây điểu thương 6. 000 viên đá lửa.
Phú Yên đến Nam Kỳ th́ dấu màu quan lục. Lấy
2 người. Sai chuyển vận cho Phú Yên 3 vạn quan tiền.
·
Tháng 5/1834, định lại phẩm
trật tỉnh Phú Yên, cờ Phú Yên, đổi thẳng làm
vệ Quang Dũng, phẩm trật lương bỗng
đều xếp dưới Ngũ Bảo. Đặt tên
gọi Tả Kỳ gồm B́nh Định đến B́nh
Thuận. Lại cho các thủy cơ Phú Yên, mỗi vệ
10 đội, thiền th́ tuyển thân dân ở ven biển
sung vào (Phú Yên nguyên ngạch có 3 đội, nay tuyển thêm
7 đội) phẩm trật lương bổng xếp
dưới ngũ thủy ở kinh. Cho Nguyễn Văn Hảo
làm Án Sát Phú Yên.
·
Tháng 8/1834, các Tú tài Nam Kỳ
được Bộ Lại chia bổ làm hậu bổ
Phú Yên.
·
Tháng 10/1834 Thăng: Lê Văn Diệp,
Cai đội lên Thự phó vệ úy Thủy vệ Phú Yên.
-Năm1835 - Minh Mạng thứ 16
·
Tháng
·
Tháng 2/1835, lại dụ cho Phú Yên
tải 30. 000 viên đạn ch́ súng tiểu san đến
Khánh Hoà để dùng.
·
Tháng 3/1835, lại ra lệnh
cho Phú Yên tải 200. 000 quan tiền kho đến Gia Định,
rồi trích giao cho Vĩnh Long và Định Tường mỗi
tỉnh 80. 000 quan.
·
Tháng 5/1835, chuẩn định
cho Phú Yên trước đặt lănh binh quan, nay đổi
làm Phó lănh binh quan.
- Năm 1836 (Bính Thân) -Minh Mạng
thứ 17
·
Quan tỉnh Phú
Yên tâu nói: "Tỉnh ấy nguyên ở chỗ băi cát không
những là đắp thành không được vững bền
lại không phải nơi dùng làm việc vơ bị". Vua
sai chọn đất khác đắp thành mới xin di về
đất Long Uyên ở huyện Đồng Xuân. Vua sai Tổng
đốc tỉnh Phú Yên là Vũ Xuân Cẩn đi xem lại
cũng tâu lên là địa thế của tỉnh ấy
không đâu hơn đất nguyên mới chuẩn cho thi
hành.
·
Tháng 3/1836 Hộ lư tuần phủ
Phú Yên Vũ Quỳnh, tâu nói Lính Cơ An - man cũ trước
đă chia đóng các xă thôn ven biên giới thuộc tỉnh hạt,
đă thành nề nếp cũ rồi. Vậy xin đến
kỳ làm sổ, cho ghi vào sổ dân đinh sở tại
vua y cho.
·
Ngày 1-5-1836 Định hạn
đi vận tải đường biển cho Phú Yên trở
vào Nam, Năm nào vận tải 1 lần th́ tháng 7 đi,
tháng 5 trở về; chở 2 lần, th́ lần trước,
tháng 3 đi, tháng 4 về; lần sau, tháng 5 đi, tháng 6 về.
·
Ngày 1-7-1836 đổi là giá
cước phí thuyền vận tải từ Phú Yên đến
kinh 3 quan 1 tiền.
·
Tháng 8/1836 Hộ phủ Phú Yên là Vũ
Quưnh bị tội, phải miễn chức. Cho nguyên Bố
chính Gia Định là Tôn Thất Lương làm Bố chính
Phú Yên.
·
Ngày 1-10-1836 Định lệ
hàng năm thu mua sản vật ở các tỉnh... Phú Yên.
Ngà voi, gỗ trầm thị.
- Năm 1837
·
Mới đặt
chức Tri huyện Tuy Hoà, tỉnh Phú Yên. Tỉnh hạt có
1 phủ (Tuy An), 2 huyện (Đồng Xuân, Tuy Hoà), địa
thế rất rộng, từ trước chỉ đặt
một tri phủ kiêm lĩnh 2 huyện, thế khó trông coi
cho xiết. Vua cho quan tỉnh, trích Tổng Đồng Xuân
- thượng đổi thuộc vào huyện Tuy Hoà, đặt
1 chức tri huyện Tổng Đồng Xuân Hạ, số
đinh điền gấp đôi, chia làm 2 tổng, vẫn
thuộc huyện Đồng Xuân. C̣n phủ Tuy An kiêm lư huyện
Đồng Xuân. Thống hạt huyện Tuy Hoà đặt ở
địa phận thôn Phú Mỵ.
·
Tháng 2/1837 định rơ điều
lệ thi Hương, thi Hội: Về dấu quyển
năm trước Phụ thi trường Thừa Thiên,
đă cho họp cùng Phú Yên đánh dấu sắc xanh. Mùa thu
năm nay thi riêng trường tỉnh ḿnh, th́ sắc xanh
nên bỏ, lại đem Phú Yên cùng Quảng Ngăi, B́nh Định
đều dùng sắc đỏ.
·
Tháng 3/1837 Vua cho Thự án sát
Phú Yên là Vũ Thế Trường đổi thự án sát
B́nh Định. Bổ dụng làm viên ngoại lang bộ
H́nh, thành Thự án sát Phú Yên. Định lại lệ ban
lương lại dịch cho Phú Yên chia làm 2 ban, người
ban ứng trực th́ mỗi tháng cấp tiền: 5 tiền
gạo 1 phương, duy Ty An biên thành trấn lấy 20
người, thường xuyên mỗi tháng cấp tiền
1 quan, gạo 1 phương.
·
Tháng 4/1837 Định lại
địa phương. Phía Nam đến B́nh Thuận... Quảng
Ngăi biên viễn, Phú Yên là cực biên.
·
Tháng 6/1837 Định lệ
thưởng cho quản thanh tra Phú Yên. Đổng lư
được thưởng kỷ lục 2 thứ, nhân
viên thừa biện được thưởng ủy lục
1 thứ.
·
Tháng 7/1837 Cấp thêm 1 ống kính
thiên lư cho Phú Yên. Đội kim sang ở lại vài ngày chỉ
bảo cách nom, ḍm và mổ đóng lau chùi. Bổ thụ Lê
Văn Diệp làm Phó Vệ úy vệ thủy Phú Yên.
·
Quan tỉnh tâu
lên Vua “Quốc vương nước Hoả Xá là Vĩnh Bảo
chết, người nước ấy theo tục, cùng nhau
lập người cháu gọi bằng cậu tên là Liệt
nối làm quốc trượng, báo đến Phú Yên. Vua bảo
bộ lễ rằng: "Nước ấy ở nơi
cơi xa hẻo lánh, quen thói quê mùa, không biết nghi lễ giao tế,
quốc trưởng tôn lập lên, cũng như là tù trưởng
người man, tuy từ trước đến nay, liệt
vào quốc vương, nhờ vậy ơn huệ hiển
hách... tháng 10 tiến kinh tạm đợi khi sứ nước
ấy đến, lại giáng chỉ cho thi hành".
· Tháng 10/1837 Các địa phương theo tục
xét hỏi những người con hiếu thảo và
đàn bà tiết nghĩa trong hạt đem sự trạng
tâu lên, trong đó có Nguyễn Văn Thiệu là con người
hiếu tử ở Phú Yên. Nguyễn Văn Thiệu, tuổi
40, thuận thờ cha mẹ, cha tên ấy có tật bệnh,
không ăn được, Thiệu dùng nhiều cách để
phụng dưỡng, làng mạc lớn bé đều khen
là hiếu. Bộ lễ bàn xin châm chước cấp cho 20
lạng bạc và đoạn lần ngoài vào trong, mỗi thứ
1 tấm, c̣n như biên ngạch, cha tên ấy đă
được nêu thưởng, c̣n cùng ở với nhau,
nghĩ nên đ́nh cấp. Vua bảo rằng: "Nguyễn Văn Tựu
trước v́ hiếu hạnh được nêu thưởng,
con hắn là Nguyễn Văn Thiệu lại nói được
đạo hiếu, được làng mạc suy tôn, thực
là một việc rất tốt ở triều thịnh. Kể
th́ nhà nước dạy điều hiếu, làm điều
trung, nguyên là mưu Tính về phong tục và ḷng người,
nếu con của Thiệu lại có hiếu hạnh, thế
là một nhà 3 đời được tất, th́ hay là
nhường nào ! Trẫm tất nêu thưởng rất hậu,
Nên cấp cho cả biển ngạch (biển ngạch khắc
4 chữ: "Thiệu thuật hiếu phong) có nghĩa là nối
tiếp nếp hiếu.
- Năm 1838 - Minh Mạng thứ 19
·
Quan ngự sử
ở Đạo B́nh Định, Phú Yên là Hoàng Thu. Cho Tôn Thất
Bố chính Phú Yên, thăng thự tham tri Bộ Binh, Vũ
Đức Quyền Án sát Thái Nguyên, thăng thự Bố
Chính Phú Yên. Nêu thưởng dân sống lâu 100 tuổi ở
Phú Yên 30 người. Định các thủ phủ, thủ
huyện ở các địa phương... Tỉnh Phú Yên
th́ phủ Tuy An, huyện Tuy Hoà.
Tháng 4/1838 Tổng đốc B́nh Định - Phú Yên là
Trịnh Quang Khanh phải giáng chức. Cho Phó Vệ úy thủy
Phú Yên là Lê Văn Diệp thăng thự phó vệ úy vệ
ngũ doanh hữu thủy sư. Cho Quản cơ Nguyễn
Văn Quỳnh làm phó vệ úy thủy Phú Yên.
- Năm 1939 (Kỷ Hợi)
- Minh Mạng
thứ 20
·
Định lại
các điều lệ tương binh ở tỉnh Phú Yên,
ngạch voi 6 thớt, tương binh 1 đội 31 người.
Thự Bố chính Phú Yên Đỗ Huy Cảnh sung làm quan
Khâm sai Trưởng tuyển.
·
Tháng 3/1839 Án sát Phú Yên Lương
Quốc Quang đổi bổ Án sát Hà Nội lănh trung bộ
lại kiêm nhiếp hữu tá tỳ phủ tôn nhân Lê Khiêm
Quang đổi bổ làm Án sát Phú Yên. Định rơ lại
ngạch thiền nhất định cho tỉnh Phú Yên: 23
chiếc.
·
Lại, sang
năm, chính là năm lệ cống của nước Hoả
Xá và bàn vệ năm ấy của 9 chân thuộc phủ Cam
Lộ vào chầu, nay xin tư cho các hạt Phú Yên.
·
Định hạn
về kỳ hạn đi đường từ Phú Yên về
kinh nộp là 7 ngày. Nếu đúng hạn th́ được
b́nh hạn ưu. Hạng b́nh thường quản giải
kỷ lục 1 thứ suất đội coi riêng thuyền
10 quan tiền, đội trưởng 8 quan, tay lái 3 quan, biền
binh 1 quan.
- Năm 1840 (Canh Tư) - Minh Mạng thứ 21
·
Tháng 2/1840 Phàm vị thần nào
đă biên vải điển lệ thờ cúng như thần
núi Hải Vân, Thúy Ba... đều có đền riêng, vẫn
theo điển lệ mà tế. Về hạt Phú Yên: núi
Đại Lĩnh, sông Đà Diễn, chọn chỗ đất
sạch sẽ đặt 1 đàn bày thần vị, trong
bài thần vị viết rơ thần vị núi nào, thần vị
sông nào. C̣n đến lễ phẩm, cũng nên phân biệt
có hơn kém. Lễ dùng 1 trâu, 1 lợn. Vua theo lời tâu, chuẩn
cho từ sau theo đấy làm lệ
·
Đổi phó lănh binh Gia Định
là Dương Thiều làm Phó lănh binh Phú Yên; Phó lănh binh Phú Yên
là Phan Văn Thư thăng thự lănh binh B́nh Thuận. B́nh
Định, Phú Yên thường năm 2 vệ cơ thay
phiên nhau đổi đóng thú, th́ cho lệ thuộc vào 2 vệ
nhất nh́ thuộc trung doanh.
· Sai Phú Yên nuôi ngựa công. Ngựa
đực 4 con, ngựa cái 15 con. Cấp cho Phú Yên 2 ống
kính thiên lư. Bố chính Phú Yên là Đỗ Huy Cảnh đổi
Bố chính Biên Hoà, kiêm hộ lư ấn tuần phủ quan
pḥng, án sát Bắc Ninh là Phạm Thế Hiển thăng
thư Bố chính Phú Yên.
- Năm 1841 (Tân Sửu)
- Thiệu
Trị năm thứ I
· Triều đ́nh xác định
lại 3 nước (Nam Bàn - Thủy xá - Hỏa xá): Nam Bàn ở
phía tây núi Thạch Bi. Thủy Xá: phía Tây giáp nước Hoả
Xá, Đông giáp đồn Phúc Sơn tỉnh Phú Yên và Man chịu
thuế ở Thạch Thành, Bắc giáp Man chưa qui phục
ở B́nh Định. Hoả Xá: phía Đông giáp Thủy Xá,
Tây giáp đất Sơn Phủ thành Trấn tây, Bắc giáp
Man có bộ lạc nhất định. Khi bản triều
mới bắt đầu dựng nước, thường
cứ 5 năm một lần sai sứ tiến cống sản
vật địa phương (Hoả Xá không thể tự
đến được, phụ với Thủy Xá). Được nước
ta thưởng cho thứ ǵ, họ đều lưu truyền
lại làm của báu đời đời. Đầu
năm Gia Long (1802-1819), sứ của nước ấy
đến Phú Yên, được thưởng cho rất hậu
và cho về nước. Sau, v́ nước ấy không yên,
không sai sứ đến cống được. Năm
Minh Mạng thứ 12 (1831), Thủy Xá mới sai xứ
đến cống, người thông dịch lại nói nhầm
là Hoả Xá, triều đ́nh nhận theo cũng cho là Hoả
Xá. Đến đây tỉnh thần Phú Yên là Lê Khiêm Quang và
Nguyễn Văn Lư vâng lời thánh dụ, sai người
đến tận nước ấy, hỏi rơ t́nh trạng
rồi tâu lên. Lại tâu rằng: "Nước Thủy Xá liệt vào hàng chức cống
của nước ta đă gần 20 năm nay, chỉ v́
người thông dịch nhầm "thủy" ra "hoả".
Quốc trưởng nước ấy là Vĩnh Liệt vẫn
không yên ḷng, xin đổi tên ấy lại cho đúng.
Nước Hoả Xá cũng ngưỡng mộ đức
hoá của nhà vua đă lâu, nhưng không thể tự đến
được. Quốc trưởng nước ấy là
Ma Thát cũng muốn phụ với nước Thủy Xá
hợp nhau dâng lễ cống như lệ cũ. Vua phán
rằng: "Hoàng khảo ta uy
đức rộng khắp. Những người tuy ở
cơi xa, nơi hoang, chẳng ai không muốn dâng bày lễ cống
ở trước sân, cũng tỏ ḷng thành tôn kính bề
trên. Thủy, Hoả vốn là hai nước, nước
Hoả nhỏ mà ở xa, nước Thủy ở gần
mà lại to, năm trước vào cống, nói là nước
Hoả, chứ không nói nước Thủy, Hoàng khảo ta
là bậc thánh minh, đă lấy làm ngờ, biết là thế
nào cũng có duyên cớ; cho nên bắt đầu sai quan
thành Trấn tây, rồi lại sai quan tỉnh Phú Yên (Năm
Minh Mạng thứ 21(1810) mùa thu, sai quan ở thành Trấn
tây và ở tỉnh Phú Yên cho người đến hỏi
sự trạng nước Thủy Xá, hỏi đi hỏi
lại, cốt để biết rơ t́nh trạng, đến
nay quả nhiên như thế. Vậy giao cho bộ Lễ
bàn luận cho kỹ, nếu là nhầm th́ đổi lại
cho đúng, nước nào đến cống th́ tiến dẫn
cho họ. C̣n việc tiến cống chung nhau, ba năm một
lần sai sứ đến, đều cho tùy ư để
người xa, được thoả ḷng thành". Khi
tờ dụ đưa đến, cả hai nước
đều rất mừng, xin đến tháng 6 sai sứ
đến kinh (một người sứ sang làm lễ tiến
hương, một người sứ sang mừng vua lên
ngôi). Vua ưng cho. Rồi ban cho quốc trưởng nước
Hoả Xá là Ma Thát: họ là Cửu, tên là Lại, để
tỏ mệnh lệnh mới. Lại thưởng cho phái
nhân của tỉnh Phú Yên là bọn Nguyễn Văn Quyền
và Đặng Văn Hoạt có thứ bậc. Hai nước
Thủy Xá và Hoả Xá cống chung với nhau bắt đầu
từ đây (các phẩm vật đem cống: Nước
Thủy Xá th́ cống 2 chiếc ngà voi, 2 cái sừng tê.
Nước Hoả Xá th́ cống 1 chiếc ngà voi, 1 sừng
tê. Cứ đến các năm Tư, Ngọ, Măo, Dậu th́
nước Thủy Xá phải chọn sai người
đi sứ và mang cả phẩm vật của hai nước
đến tỉnh Phú Yên làm lễ tiến cống. Theo lệ,
thưởng cho quốc vương nước Thủy Xá
cái khăn nhiều màu lam dài 8 thước, áo dài bằng sa
dày màu lam, màu trắng 1 cặp, áo nhung vải trong lót lụa
màu, tay hẹp 1 cái, áo sa dày màu lam trắng tay hẹp 1 cặp,
áo sa nam toàn tơ tay hẹp các màu 5 chiếc, quần nhiễu
màu lam hồng mỗi màu 1 chiếc, quần lụa nam màu
cánh kiến 2 chiếc, 1 bộ đồ uống rượu
có 1 cái nậm, 3 cái chén, 1 cái khay. Quốc vương nước
Hoả Xá được 1 cái khăn nhiễu màu lam dài 8
thước, áo dài bằng sa dày màu lam màu trắng 1 cặp,
áo nhung vải trong lót lụa màu tay hẹp 1 chiếc, áo sa
nam màu hồng mỗi màu 1 chiếc, 1 bộ đồ uống
rượu. Lại cấp cho quốc vương hai nước
đều 1 cặp áo măng tam phẩm về vơ giai. Thưởng
cho Nguyễn Văn Quyền làm đội trưởng ở
tỉnh ấy, Đặng Văn Hoạt làm cửu phẩm
thư lại, bọn tuỳ phái, thông ngôn, mỗi người
1 cặp áo bằng nhiễu nam và vải tây dương và
10 lạng bạc.
·
Cho Bố chính
Phú Yên là Phạm Thế Hiển làm Tả thị lang bộ
Hộ. Cho án sát Phú Yên là Lê Khiêm Quang làm Thự Bố chính sứ
Phú Yên.
·
Tháng 1/1841 Cho Bố
chính Phú Yên là Phạm Thế Hiển làm Tả thị lang Bộ
Hộ. Cho Án Sát Phú Yên là Lê Khiêm làm Thự bố chính sứ
Phú Yên.
·
Tháng 7/1841 Quy định ngạch
binh ở tỉnh Phú Yên: Thủy vệ Phú Yên, vệ Phú Yên,
cơ Phú Yên, đội Phú Tượng, đội tuần
thánh, đội pháo thủ.
- Năm 1843
·
Tháng
4/1843, khen thưởng
người con có hiếu là Nguyễn Văn Thiệu ở
tỉnh Phú Yên. Thiệu là con người hiếu tử
Nguyễn Văn Tựu (người thôn Diêm Điền,
huyện Đồng Xuân) Tựu có tiếng là hiếu. Thiệu
nối được đức hiếu của cha,
được người chầu quận và làng mạc
đều kính nhường, khoảng năm Minh Mạng,
cha con đều được thưởng cấp Ngâm
đoạn và biển ngạch (biển của Tựu: khắc
chữ: "Hiếu thuận
khả phong"; biển của Thiệu khắc chữ: "Thiệu thuật khả
phong").
- Năm 1844 (Giáp Th́n) - Thiệu Thị
năm thứ 4
·
Tháng 8/1844 Xét chực
chưởng lệ, lănh binh ở trong kinh và ngoài tỉnh...
Phó lănh binh Phú Yên. Dương Thiều đều được
thưởng kỷ lục một thứ. Định lại
lệ Phú Yên phát văng những quân nhân phạm tội đều
như lệ trước, phát đi làm quân ở cơ
Định Nan. Vua y cho.
·
Tháng 12/1844 Chuẩn
cho từ nay trở đi, giao cho tỉnh Phú Yên hàng năm
phát cho Thủy Xá, Hoả Xá bản quan lịch, 50 bản
dân lịch. Phú Yên phái 2 người để sung vào việc
thanh tra.
- Năm 1845 (Ất Tỵ)
- Thiệu
Trị thứ 5
·
Tháng 1/1845 cho Quyền lang
trung ly kinh trực bộ Hộ Nguyễn Hữu Cơ
điện bổ quyền án sát sứ Phú Yên.
·
Tháng 5/1845 ngày Mậu Dần. Vua
ngự nhà chỉ Thiệu; bộ Lễ dẫn người
con hiếu ở Phú Yên là Nguyễn Văn Thiệu đến
Chiêm bái. Vua khen rằng: "Cha Thiệu là Văn Tựu
trước có tiếng là người con hiếu, nay con lại
noi theo đạo hiếu trở thành nhà tốt, thật là
việc mà nhà người khác khó làm được. Triều
đ́nh dạy điều hiếu, trung, để làm kế
hay cho ḷng người và phong tục. Và thưởng cho Thiệu
ngân tiền, áo sa, rồi cho về.
- Năm 1846
·
Vua triệu hỏi
Thị lang Bộ Lễ là Nguyễn Hanh rằng: "Khi ngươi ở tỉnh
Phú Yên, có từng xem xét sự t́nh nước Hoả Xá thế
nào không ?" Hanh thưa rằng: "Năm ngoái, v́ được ban cấp quan lịch,
nước ấy đến tỉnh bái lĩnh, khôn xiết
vui mừng; lại nói rơ nhân dân nước ấy được
yên vui tất cả, thực là nhờ uy đức nhà vua,
năm nay kính gặp tiết từ tuần đại
khánh, xin cứ t́nh đề đạt tâu lên, cho nước
ấy được về kinh chúc mừng, để tỏ
ḷng thành".
·
Tháng 8/1846 Án sát Phú Yên Nguyễn Hữu
Cơ làm phó chủ khảo trường thi Gia Định.
Triệu quyền Bố chính Phú Yên là Nguyễn Văn Chấn
sung làm khâm điểm viên các đạo, về kinh tiến
lương.
·
Tháng 11/1846 Quan tỉnh Phú Yên phái
thuộc viên kính đệ lễ phẩm đến kinh,
thay 2 nước Thủy Xá, Hoả Xá làm lễ tiến
lương, v́ có sứ thần 2 nước đến
chúc khách mới về. Bộ Hộ, Bộ H́nh đều
nói "Bọn người phát đi sung quân vốn không có
căn cước huống chi tù đồ khổ sai đều
có niên hạng. Lại, từ Phú Yên trở ra Quảng Trị
những án phát đi sung quân... đă có lệ định,
trước thi hành.
- Năm 1847
·
Tháng 4/1847 bắt đầu đặt
chức Đốc học tỉnh Phú Yên. Dân đinh Phú Yên
có 9. 596 người.
- Năm 1848
·
Lại đặt
chức đốc học ở Phú Yên (Đốc học tỉnh
ấy về năm Minh Mạng thứ 14 đă đặt,
rồi sau lại bỏ bớt đi). ở Phú Yên có Nguyễn
Văn Nạn thọ 110 tuổi. (Trước đây khi thọ
100 tuổi đă được khen thưởng, đều
chiếu theo thế mà khen thưởng. Khẩm điểm
các quan địa phương (... Bố Chính Phú Yên là Nguyễn
Cư Sĩ... ) về kinh chực làm lễ lớn Ninh
Năng (đem quan tài tiên đế chôn vào lăng). Chuẩn
cho lấy thêm số giải ngạch (số lấy đỡ)
ở Phú Yên. ở mặt quyển đều có chấm hiệu
sắc đỏ thẩm lấy 9 người. Lại dựng
nhà đốc học ở Phú Yên (Phú Yên trước đặt
đốc học, sau đổi đặt giáo thụ.
Năm ấy lại đặt đốc học, tỉnh
thần Xin dựng đặt, nhà giảng đường
đổi làm lợp ngói xây gạch).
-Năm 1852
·
Lănh binh quan tỉnh
Phú Yên là Trần Tự dâng ngựa sắc kim (khi ấy tự
mua, tự nhân thế cung tiến 1 con ngựa).
-Năm 1853
·
Vua hỏi
Đăng Quế B́nh Định - Phú An nên chia hạng hợp
như thế nào ? (lúc ấy có nghị xin tỉnh Phú An nên
hợp với tỉnh B́nh Định c̣n đương cần
xét nghĩ lại. Đăng Quế thưa. Sự thế
không trở ngại ǵ chỉ v́ là việc mới sáng kiến,
nên ḷng mọi người c̣n ngờ chỗ là lạ. Vua
cho đề thi điện khoa ấy là 3 tỉnh (Quảng
Trị, Phú Yên, Hà Tỉnh nên phân hạng ? nên họp ? cũng
là việc cốt yếu về việc dùng người và
trị nước, phải bàn luận rơ ràng. Sai tỉnh thần
gọi cả cử nhân tại quán đều do học nha
cấp lương. Cho học bổng để học tập.
Lại hạ lệnh các tỉnh thần hội đồng
với học thần, sát hạch tú tài, sĩ nhân trong hạt,
ai có tư chất tốt và ham học, bổ vào làm học
sinh. Phú Yên 10 người.
·
Tỉnh Phú Yên
đổi thành đạo Phú Yên. Viên quản đạo Phú
Yên kiêm lư 2 huyện Đồng Xuân, Tuy Hoà: số lại
viên bát, cửu phẩm: 1 người, vị nhập
lưu 10 người. Binh lính 1 vê hoặc 1 cơ.
- Năm 1854
·
Nêu thưởng
biển ngạch cho 2 xă An - Nghiệp, Mậu - Tài thuộc
tỉnh Phú Yên mỗi xă 1 tấm biển (trong khắc 4 chữ
"thiện tục khả phúng = tục tốt đáng
khuyên thưởng" và thưởng cho lương
trưởng là Nguyễn Văn Sĩ, Lê Văn Quang ṭng cửu
phẩm bá hộ. Dân 2 xă ấy góp thóc mua ruộng, đặt
kho, nên mất mùa, binh và dân đều được giúp
đỡ, bỏ thói tranh giành, chuộng thói khiêm nhượng,
tục làng rất thuần, là do Văn sĩ Văn Quang
xướng xuất cho nên được thưởng cả.
Giảm bớt số viên dịch ở các ty Phiên, Niết ở
Phủ tỉnh và Phủ huyện. Phú Yên mới đặt
ra đều vừa đủ người đủ việc
th́ không giảm.
-Năm 1855
·
Về đạo
Phú Yên phàm gặp năm nào có thi Hương, th́ do viên coi
đạo Phú Yên đều vào ngày 1- 4, chuyển sức cho
các viên giáo huấn thông sức cho trong hạt biết.
Người nào đi hạch phải đem quyển hạch
nộp tại các viên huấn, giao các đạo ấy, rồi
do quan ở đạo ấy phát đệ giao cho giám thần,
học thần thu nhận, và sức cho học tṛ phải
tới phủ (Thừa Thiên), tới tỉnh mà ứng hạch,
sẽ lại do giám thần, học thần hội đồng
với tỉnh, phủ, huấn, giáo ra đầu dề
sát hạch.
·
Nước Thủy
Xá và Hoả Xá đến cống sản vật địa
phương: (Thủy Xá cống 1 cặp ngà voi, 2 chiếc
sừng tê, Hoả Xá cống 1 chiếc ngà voi, 1 chiếc sừng
tê). Bồi thần các nước ấy đến ban tờ
sắc thư cho 2 quốc vương ấy, thưởng
vật hạn cho các bồi thần và thông ngôn, rồi cho về
nước.
-Năm 1862
·
Từ khi Hoà
ước đă thành, thông dụ cho Nam-Kỳ nghỉ quân,
đổi Trương Định về Phú Yên.
-Năm 1864
·
Đặt thêm
chức Phó Quản đạo ở Phú Yên (1 người -
trật chánh ngũ phẩm).
-Năm 1865
·
Vua sức cho
các tỉnh phảo đóng thuyền. Phú Yên 1 chiếc để
vận tải tiền gạo. Sức cho các thuyền ở
Tat Kỳ (... Phú Yên... ) đến Vĩnh Long lănh tiền
mua gạo về để bán. Sai dựng nhà từ
đường cho Long Vân hầu là Nguyễn Long (tức
Nguyễn Phúc Long) là công thần theo đi vọng các khi
trước. V́ không có ḍng chính nối thờ tư, nên cho
đạo thần Phú Yên dựng 1 ngôi đền ở Liên
ấp, cấp cho tự điền, đó là ân đặc
cách.
- Năm 1866
· Đặt sở ḷ đúc ở
Phú Yên, do quan ở Phú Yên chọn lấy 1 người thợ
bạc tinh xảo cấp bằng sung làm Tượng mục
trật ṭng cửu phẩm.
-Năm 1867
·
Đắp thêm
lũy đất h́nh bán nguyệt ở đạo Phú Yên (ở
núi mỗi tra bên tả đồn Phú Vĩnh Vụng Lâm cửa
biển Xuân Đài).
- Năm 1868
·
Hai nước
Thủy Xá và Hoả Xá dâng lễ mừng, hai nước ấy
năm trước gặp nạn đói kém, lễ cống
hoăn đến năm nay. Đến nay ủy chánh phó sứ
là Kiều Linh sơn lư đến Phú Yên tiến dâng dồ
cống và lễ mừng (Đồ cống của nước
Thủy Xá 2 ngà voi, đồ cống của nước Hoả
Xá, 1 cái ngà voi, 1 cái sừng tê và lễ mừng). Quan bộ lễ
tâu nói. Năm nay kinh khánh tiết, đă ban dụ bảo,
phân tất cả chầu ninh tiến dâng, yến nhạc,
bày đặt phù phí đều băi bỏ hết, nhưng 2
nước ấy ở xa hẻo lánh, tiêm nhiễm thanh giáo
đă lâu, kinh sửa lễ nghị tiến dâng là do ḷng
thành, nên cho đ́nh băi, không phải để vui ḷng người
phương xa. Vua y lời tâu (đến ngày lễ mừng
chuẩn). Tỉnh Phú Yên, bỏ bớt 2 hậu bổ, 2 vị
nhập lưu, 2 thông lại; để lại hiện
đặt: 1 kinh lịch, bát cửu phẩm mỗi chức
2 người, 14 vị nhập lưu, 1 tự thừa ở
Lễ sinh hiệu, 6 lễ sinh; 2 huyện thuộc hạt:
Đồng Xuân, Tuy Hoà đều nơi ít việc)... mỗi
huyện 1 lại mục, 2 thông lại, cộng 35 viên.
-Năm 1869
·
Định lại
lệ thải, điều biền binh. Lại dịch lễ
sinh, y sinh và lính lệ phu, trạm, hiệu đội các ty
có khuyết th́ ở Phú Yên cho được mộ tiếp.
Hai nước Thủy Xá, Hoả Xá, sai chánh sứ Kiều
Linh, phó sứ Sơn Lai đến cung tiến lễ mừng
về đại khánh tiết. (Mỗi nước 1 chiếc
ngà voi). Ban cho sắc thự phẩm vật (do Đạo
Phú Yên thưởng cấp). Mùa hạ năm ấy Phú Yên
được mùa. Mùa thu năm ấy Phú Yên được
mùa.
- Năm 1873
·
Bộ hộ
tâu xin chuẩn cho Phú Yên mua 2 đôi ngà voi, 2 chiếc sừng
tê để cống nạp. Mùa thu năm ấy, Phú Yên
được mùa.
· Tháng 7/1873 Nước Thủy Xá, Hoả Xá đến
cống. Phó sứ kiện Mộc bị bệnh, phải ở
lại chỗ đầu biên giới. Chánh sứ Sơn th́
đến sứ quán tỉnh Phú Yên, cũng bị bệnh
quan tỉnh tâu lên, vụ dụ rằng: "Hai nước
ở cơi xa, người mến thanh giáo của Triều
đ́nh, được liệt vào hàng chầu đă lâu. Tấm
ḷng sợ mệnh trời, thờ nước lớn
trước sau không thay đổi, rất đáng khen
thưởng. Sứ bọ ấy trước kia đă
được chầu hầu, đến khi về, theo lệ
có ban sắc thư vật phẩm. Nay sứ thần ở
xa đến... chuẩn cho dời ở tỉnh Phú Yên.
Không phải đến kinh và sai phái viên đem đi ban cho.
Nhưng triều đ́nh không ban sắc thư mà bảo tha
về. Bố chính sứ tỉnh Phú Yên là Lê Khiêm Quan dâng con
ngựa. Vua cho gọi là ngựa Thiện Hương, sung
làm ngựa ngự dụng. Chuyến cuối cùng thuyền
vận tải đến kinh được yên ổn, Vua
chuẩn cho quan sấm lễ tam sinh và trích lấy
lương lụa của kho đến miền nam Hải
Long Vương để tế tạ.
-Năm 1874
·
Hoang man ở Hoả
Xá (hơn 60 tên) đốt cướp trường giao dịch
ở Nguyên Thạch Thành đạo Phú Yên, quan đạo ấy
là Lê Văn Phổ, Ngô Đức B́nh, lănh binh quan là Thái Suư
v́ pḥng giữ sơ suất, đều giáng 1 cấp
lưu lại làm việc, rồi sai phải pḥng giữ
nghiêm ngặt hơn để yên dân ở biên giới. Mùa
thu năm nay, Phú Yên được mùa vừa.
-Năm 1875
·
Đổi
đạo Phú Yên thành tỉnh Phú Yên. Quan tỉnh: 1 bố
chính, 1 án sát, 1 đốc học. Thành tŕ vẫn như cũ.
-Năm 1878
·
Thưởng cấp
sắc thư và phẩm vật cho 2 vua nước Thủy
Xá, Hoả Xá và biểu mừng lần này dâng biểu mừng
do tỉnh Phú Yên, nghĩ tiến, lễ phẩm do tỉnh
Phú Yên nhận đệ, sứ thần lạy mừng ở
hoàng cung tỉnh Phú Yên, đến nay phát quy thưởng
cho kim tiền, ngân tiền, đoan the, trừu, lụa, cả
2 người sứ, 4 người tuỳ tùng, c̣n lễ phẩm
chuẩn cho trừ vào lễ cống năm sau, lần sau
miễn, cho không phải đi nữa.
- Năm1879
·
Nêu thưởng
dân tuổi thọ ở tỉnh Phú Yên (Trần Văn Ngoan,
102 tuổi, Trịnh Hoài Mỹ 100 tuổi).
- Năm 1880
·
Tháng 11-1880, làm
chỗ ở khác 2 miếu hội đồng, thành hoàng và
các đàn xă tắc Sơn Xuyên, tiên nông ở tỉnh Phú Yên
(trước ở xă Xuân Đài, bị lụt cát bồi,
chuẩn cho di chuyển đến địa phận xă Long
Xuyên). Lương giảm số học tṛ đi thi... Từ
nay số học tṛ láy đỗ hạch:... Phú Yên trên
dưới 100 người.
- Năm 1882
·
Định là lệ
phủ Tuy Hoà là nơi nhiều việc vừa. Thuyền của
phái viên nước Pháp đến B́nh Định, Phú Yên
khám đo cửa biển và vẽ bản đồ.
·
Vũ Văn Mai
lo dân tỉnh Phú Yên xin lấy thuật phù thủy chữa bệnh
cho người để đến chết, xử tội
trạm gian hậu. Vụ lúa mùa năm ấy, có tỉnh
B́nh Định, Phú Yên được mùa to.
-Năm 1883
·
Giúp đỡ
cho thuyền buôn nước Thanh bị nạn gió băo. (thuyền
ở Phúc Kiến giạt vào phận biển tỉnh Phú
Yên).
- Năm 1884
·
Vua 2 nước
Thủy Xá, Hoả Xá sai sứ thần là bọn Sơn Luân
kinh làm lễ tiến lương (ở sảnh lỵ Phú
An, 8 cân 1 lạng sáp ong), lễ khánh hạ (ở hành cung Phú
An, ngà voi 4 chiếc, sừng tê 2 tảng). 2 lễ. Dụ
cho sắc thư về tiền bạc phẩm vật cho về.
Lại ban danh lệ cho quốc trưởng mới thành lập
ở nước Thủy Xá v́ vẫn họ là họ Vĩnh
(nguyên quốc trưởng cũ là Vĩnh Khắc chết).
·
Ngày
- Năm 1885 (Ất Dậu)
- Hàm Nghi
·
Tháng 10/1885 Cho Tả Tham tri bộ
Binh là Tôn Thất Phan sung là khâm sai đại thần. Kiêm
quyền Tổng đốc B́nh Thuận, Phú Yên. Nguyên án sát
Phú Yên phải giáng chức là Hoàng Công, theo hàm kiêm thảo lĩnh
án sứ.
-Năm 1886 (Bính Tuất) - Đồng Khánh thứ
1
·
Khôi phục lại
phép thay đổi lính đóng đồn ở B́nh Định
cùng với Phú Yên thay đổi nhau. Gần đây có người
dâng sớ tâu xin dùng binh... Nay chọn quan khâm sai, cấp cho ấn
quan pḥng, cơ mao tiết đốc suất đạn các
vệ tập binh, khí giới tốt, lương thực
đủ... truyền hịch ngay cho Quảng Ngăi, B́nh Định,
Phú Yên bàn với quan pháp hiện đóng ở đấy, tuỳ
tiện làm việc, phải làm thế nào cho được
sớm yên.
·
Tháng 4/1886 Chuẩn cho thự
thượng thư sinh khâm sai đại thần, lănh tổng
đốc B́nh Định, Phú Yên là Tôn Thất Phan theo hàm vốn
có đổi lănh tả tham tri bộ Binh.
·
Tháng 9/1886 Ngạch giảm binh làm
lính tập ở Phú Yên. 300 người
Năm 1887 (Đinh Hợi)
- Đồng
Khánh thứ 2
·
Bộ nghĩ
định: "Thuế lệ về 3 năm trước,
theo như B́nh Định, Phú Yên gần đây cho miễn cả,
c̣n thuế năm nay thiếu bao nhiêu, chia làm 10 tháng xin gia ổn,
miễn cho bao nhiêu, c̣n bao nhiêu phải thu. Các hạt B́nh
Định, Phú Yên nổi loạn nên bị phạt tiền
rất nặng. Truy tặng cho tri huyện, huyện Tuy Hoà
là Lê Đ́nh Nại (người huyện Hương Thủy,
Thừa Thiên hâm Hàn lâm viện Thị Giảng. Giảm bớt
lại dịch ở tỉnh Phú Yên ở Phiên Ty nguyên
trước đặt: bát phẩm 2 người, cửu
phẩm 3 người, vị nhập lưu 22 người,
ở niết tỳ: bát phẩm 1 người, cửa phẩm
2 người, vị nhập lưu 14 người, nay giảm
ở phiên ty: cửu phẩm 1 người, vị nhập
lưu 12 người, vị nhập lưu 8 người.
·
Tháng 2/1887 Đặt quan lại tỉnh
Phú Yên. Bây giờ quan quân Pháp đánh dẹp, hạt ấy
đă tạm yên ổn; viên toàn quyền đánh điện
nói triều đ́nh nên đặt quan như cũ. Viên khâm
sai người Pháp ở B́nh B́nh, Phú Yên là Trần Bá Lộc,
cai quản đem quan quân đi tàu thủy về tỉnh
Gia Định. Miễn các hạng thuế về năm
ngoái và các năm trước cho 2 hạt: B́nh Định,
Phú Yên.
- Năm 1908
·
Ngày
- Năm 1930
·
Ngày 5-10-1930 Chi bộ
Đảng Cộng sản đầu tiên của Phú Yên
được thành lập tại thôn Đồng Bé, Thị
trấn La Hai, huyện Đồng Xuân do Đ/c Phan Lưu
Thanh người cộng sản đầu tiên của tỉnh
Phú Yên làm Bí thư.
Trích
và tham khảo từ các tài liệu:
·
Đại
·
Khâm định Đại
·
Việt
·
Lịch sử
Đảng bộ tỉnh Phú Yên 1930-1945. - Ban tuyên giáo Tỉnh
ủy Xb 1999
PHỤ LỤC
DANH SÁCH THAM DỰ HỘI THẢO KHOA HỌC
XÁC ĐỊNH
MỐC THỜI GIAN H̀NH THÀNH
TỈNH PHÚ YÊN
Ngày
STT |
HỌ VÀ TÊN |
ĐƠN VỊ |
1.
|
Nguyễn Thành Quang |
Bí thư Tỉnh uỷ Phú Yên |
2.
|
Đào Tấn Lộc |
Chủ tịch UBND Tỉnh PY |
3.
|
Nguyễn Văn Dũng |
GĐ Sở Khoa học và Công nghệ PY |
4.
|
Bùi Sơn Hải |
Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy
Phú Yên |
5.
|
Dương Trung Quốc |
Tổng thư kư Hội Khoa học Lịch
sử Việt |
6.
|
Đào Hùng |
Phó Tổng Biên tập Tạp chí Xưa và
Nay |
7.
|
Trần Bạch Đằng |
Nhà nghiên cứu – TPHCM |
8.
|
Nguyễn Đ́nh Đầu |
Nhà Nghiên cứu – TPHCM |
9.
|
Nguyễn Đ́nh Tư |
Nhà nghiên cứu – TPHCM |
10. |
Nguyễn Quốc Lộc |
GS.TS - Hội đồng KHXH-TPHCM |
11. |
Huỳnh Lứa |
PGS Chủ tịch Hội Khoa học Lịch
sử – TPHCM |
12. |
Nguyễn Khắc Thuần |
Nhà nghiên cứu KHXH –TPHCM |
13. |
Trần Viết Ngạc |
Tiến sĩ – TPHCM |
14. |
Nguyễn Hạnh |
Phó Ban Biên tập Tạp chí Xưa và Nay |
15. |
Nguyễn Chu |
Nguyên Trưởng ty Giáo dục Phú Yên |
16. |
Nguyễn Đ́nh Cự |
Bí thư Thị uỷ Tuy Hoà |
17. |
Ka Sô Liễng |
Nhà nghiên cứu- |
18. |
Trần Châu |
Nguyên Bí thư Tỉnh uỷ Tỉnh Lâm
Đồng |
19. |
Bá Thanh Kia |
UVBTV Tỉnh Ủy – |
20. |
Lê Văn Hữu |
Nguyên PBT Tỉnh uỷ - |
21. |
Hồ Văn Tùng |
Phó giám đốc Sở KH&CN |
22. |
Nguyễn Văn Chín |
Chủ nhiệm Uỷ ban Kiểm tra Tỉnh
ủy PY |
23. |
Trần Quang Tuấn |
Nhà báo - Tạp chí Xưa và Nay |
24. |
Lương Sông Hy |
Nhà báo - Tạp chí Xưa và Nay |
25. |
Bùi Tân |
Nguyên UVBTV Tỉnh uỷ Phú Yên |
26. |
Phạm Ngọc Chi |
UVBTV Tỉnh uỷ - |
27. |
Trần Văn Chương |
GĐ Sở Giáo dục – Đào tạo PY |
28. |
Phạm Ngọc Phi |
Tổng biên tập Báo Phú Yên |
29. |
Đặng Phi Thưởng |
Đại tá. Chỉ huy trưởng - |
30. |
Tạ Sơn Hùng |
Chánh văn pḥng UBND Tỉnh PY |
31. |
Nguyễn Văn Tân |
Phó Chủ tịch UBND Tỉnh Phú Yên |
32. |
Tạ Tấn Đông |
Giám đốc Trung tâm truyền h́nh VN tại
Phú Yên |
33. |
Nguyễn Văn Thái |
Trưởng pḥng tổng hợp – |
34. |
Đinh Thanh Đồng |
Phó Bí thư Tỉnh uỷ Phú Yên |
35. |
Vơ Minh Thức |
Chánh Văn pḥng Tỉnh uỷ PY |
36. |
Trần Khắc Luyện |
Trưởng ban VHXH - |
37. |
Lê Quỳnh Ba |
Sở Khoa học và Công nghệ PY |
38. |
Phan Đ́nh Phùng |
PGĐ Sở Văn hoá thông tin – |
39. |
Lưu Sỹ Hiền |
GĐ Đài Phát thanh PY |
40. |
Nguyễn Văn Hiền |
GĐ Sở Văn hoá thông tin PY |
41. |
Huỳnh Trúc |
Nguyên PBT Tỉnh Ủy- |
42. |
Đinh Thanh Tịnh |
Phó Chủ tịch UBND Tỉnh PY |
43. |
Lê Kim Anh |
Bí thư huyện uỷ Tuy Hoà |
44. |
Cao Xuân Thiêm |
Nguyên PBT Tỉnh uỷ PY, nguyên quyền
Chủ tịch UBND Tỉnh Phú Khánh |
45. |
Nguyễn Tấn Th́nh |
Sở Khoa học và Công nghệ PY |
46. |
Nguyễn Định |
Trường CĐSP Phú Yên |
47. |
Lê Bạt Sơn |
Trường CĐSP Phú Yên |
48. |
Dương Thái Nhơn |
Giám đốc Thư Viện Tỉnh PY |
49. |
Trần Thị Hà |
Phó Chủ tịch UBND Tỉnh PY |
50. |
Lê Thanh Phương |
TP Thông tin Sở KHCN |
51. |
Lê Xuân Đồng |
PTP Quản lư Khoa học Sở KHCN |
...............................................
CỘNG HOÀ XĂ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
BIÊN BẢN
HỘI THẢO KHOA HỌC PHÚ YÊN 395 NĂM
H̀NH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN (1611-2006)
-------------
Vào
lúc 8 giờ ngày 14/3/2006 tại Pḥng Hội thảo Sở
Khoa học và Công nghệ tỉnh Phú Yên đă tổ chức
Hội thảo khoa học Phú Yên 395 năm h́nh thành và phát triển
(1611-2006).
I.
Thành phần đại biểu tham dự:
-
Đ/c Vũ Văn Thoại - Uỷ viên Ban Thường vụ
Tỉnh Uỷ-Trưởng ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ.
-
Đại biểu các cơ quan: Văn pḥng Tỉnh ủy,
Văn pḥng UBND Tỉnh, Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ, Sở
Văn hoá thông tin. Các đồng chí lăo thành cách mạng.
- Các đồng chí có tham gia nghiên cứu về
lịch sử và văn hoá Phú Yên.
- Đại diện Các Sở ban ngành,
đài phát thanh, truyền h́nh, báo Phú Yên.
Chủ tŕ Hội thảo:
-
Đồng chí Lê Kim Anh – Phó Chủ tịch UBND Tỉnh Phú
Yên.
-
Đồng chí Nguyễn Văn Dũng – Giám đốc Sở
KH&CN.
-
Đồng chí Hồ Văn Tùng – Phó Giám đốc Sở
KH&CN.
Thư kư Hội thảo:
- Đồng chí Nguyễn Thị Mỹ Liên – Chuyên viên Sở
KH&CN.
II.
Nội dung Hội thảo:
- Đồng chí Lê
Kim Anh – Phó Chủ tịch UBND Tỉnh Phú Yên khai mạc Hội
thảo.
- Đồng chí
Nguyễn Văn Dũng – Giám đốc Sở KH&CN tŕnh
bày đề dẫn Hội thảo Phú Yên 395 năm h́nh
thành và phát triển.
Hội thảo
đă nghe những báo cáo chuyên đề:
1. Việc khẩn hoang lập
làng ở Phú Yên vào các thế kỷ 17, 18, 19” do ông Trần Sĩ Huệ tŕnh bày.
2. Phong trào yêu nước
chống Pháp trước khi có Đảng ở Phú Yên” do ThS.
Nguyễn Văn Thưởng, Trường PTTH Lương
Văn Chánh tŕnh bày.
3. Nghiên cứu việc
thực hiện các chính sách của triều Nguyễn và thực
trạng KTXH tỉnh Phú Yên trong thế kỷ XIX– ThS. Phạm
Ngọc Trâm, Liên hiệp các Hội KHKT Phú Yên ở tỉnh
Phú Yên.
4. Phú Yên – địa lư hành chính, thiết chế
hành chính qua các thời kỳ, ông Lê Xuân Đồng, Sở
KHCN, UV Hội Khoa học lịch sử Việt Nam
5. Kinh tế - xă hội Phú Yên trong thế kỷ
XVII-XVIII – ThS. Lê Thế Vịnh, Sở Văn hoá – Thông tin
6. Thành tựu KTXH
Phú Yên từ 1975 - 2005 – Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Phú Yên
7. Một số sự
kiện lịch sử liên quan đến địa danh
hành chính đầu tiên có tên Phú Yên – Ông Hồ Văn Tùng,
PGĐ Sở KHCN
Báo cáo tham luận:
+ “Khái quát diện mạo
và mốc lịch sử h́nh thành danh xưng Phú Yên. Truyền
thống của người Phú Yên trong suốt chiều dài
lịch sử” do Ông Bùi Tân tŕnh bày.
+ “Dinh Trấn Biên
trong ḷng đất Phú Yên” do ThS. Nguyễn Thị Hiệp
Ngọc - Trường THPT Ngô Gia Tự tŕnh bày.
Thảo luận:
Ư kiến của
các đại biểu Hội thảo thống nhất với
những nội dung các chuyên đề đă tŕnh bày trong Hội
thảo. Tuy nhiên, các tác giả và ban biên tập cần sửa
chữa lỗi, bổ sung hoàn chỉnh thêm và cấu trúc lại
để hoàn thiện Kỷ yếu Hội thảo khoa học.
Tổng kết hội
thảo:
Đồng chí Nguyễn
Văn Dũng - Chủ tŕ Hội thảo đă tổng hợp
một số nội dung:
- Hội thảo
khoa học Phú Yên 395 năm h́nh thành và phát triển (1611-2006)
đă có nhiều Báo cáo chuyên đề và những bài tham luận
cung cấp nhiều sự kiện lịch sử và nhân vật
lịch sử trong quá tŕnh đấu tranh, và những phong
tục tập quán của người Phú Yên.
- Những báo cáo
chuyên đề, những bài tham luận sẽ được
Ban Biên tập chỉnh sửa, bổ sung và in trong tập Kỷ
yếu Hội thảo khoa học Phú Yên 395 năm h́nh thành
và phát triển (1611-2006), phục vụ cho ngày kỷ niệm
395 năm Phú Yên.
Các Đại biểu
không có ư kiến nào khác.
THƯ KƯ
Nguyễn Thị Mỹ Liên |
TM. CHỦ
TR̀ HỘI THẢO GIÁM ĐỐC
SỞ KHCN PHÚ YÊN Nguyễn
Văn Dũng |
.......................................
CHỊU TRÁCH NHIỆM
XUẤT BẢN
NGUYỄN VĂN DŨNG
BAN BIÊN TẬP
TRƯỞNG
BAN: Ông Nguyễn Văn
Dũng
PHÓ TRƯỞNG BAN: Ông Hồ Văn Tùng
THÀNH
VIÊN: Ông Nguyễn Sĩ Dư
Ông
Đào Minh Hiệp
Ông
Nguyễn Niên
Bà Trần Thị Kim
Hiền
[91] C.Fourniau. “Cuộc kháng chiến chống Pháp ở B́nh Định - Phú Yên (1885-1887)”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 6, 1982, tr 39,41,50,43
[92] & 2 C.Fourniau. “Cuộc kháng chiến chống Pháp ở B́nh Định - Phú Yên (1885-1887)”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 6, 1982, tr 39,41,50,43
[93] Nguyễn Đ́nh
Tư. Non nước Phú Yên, Nxb Tiền Giang,1965, tr. 148.
[94] C.Fourniau. “Cuộc
kháng chiến chống Pháp ở B́nh Định - Phú Yên
(1885-1887)”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 6,
1982, tr 39,41,50,43
[95] Hành Sơn. Cụ Trần Cao Vân, Nxb Minh Tân, Pari VI. 1950, tr. 9-11, 38
[96] Nguyễn Văn Thưởng. Góp phần t́m hiểu
cuộc khởi nghĩa Vơ Trứ, Trần Cao Vân ở Phú Yên năm 1898, Tạp chí Nghiên cứu
lịch sử, số 10, 2004, tr.46,47.
[97] Tài liệu lịch sử Đảng bộ huyện
Sơn Ḥa,1985, tr.7
[98] Hành Sơn. Cụ Trần Cao Vân, Nxb Minh Tân, Pari VI.
1950, tr. 9-11, 38
[99] Lịch sử Đảng bộ tỉnh Phú Yên (1930-1945), Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Phú Yên xuất bản, 1999, tr.30, 28.
[100] A. Laborde. La Province de Phu-Yen, BAVH. N° 4. 1929. Tr.211
[101] Daufès (E). La Garde Indigène de l' Indochine de sa création à
nosjours, Tome, Imprimerie D.Avignon. 1934. Tr. 123.
[102] Hồ Chí Minh toàn tập. tập 1, Nxb Chính trị
Quốc gia,1995,tr. 412.
[103] Lịch sử Đảng bộ tỉnh Phú Yên
(1930-1945), Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Phú Yên xuất bản, 1999,
tr.30, 28.
[104] David Marr. Vietnamese anticolonialism (18
[105] Theo Hồ Song, Vụ
dân biến ở miền Trung Việt Nam đầu năm
1908, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 2. 1999,
tr.15.
[106] Theo Hồ Song, Vụ
dân biến ở miền Trung Việt Nam đầu năm
1908, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 2. 1999,
tr.15.
[107] Phú Yên Kháng chiến chống thực dân Pháp
(1945-1954), Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Phú Yên Xuất bản,
1994, tr.20.
[108] Phan Châu Trinh. Trung kỳ dân biến thỉ
mạt kí, Lê Ấm, Nguyễn Q. Thắng chú dịch và giới
thiệu,1973, tr.86.
[109] Dương Kinh Quốc. Việt Nam những sự
kiện lịch sử (1858-1918), NXB Giáo dục Hà Nội.
2000, tr. 314.
[110] Tài liệu lưu Ban nghiên cứu lịch
sử Đảng Đăk Lăk, KH. 328-A1.
[111] Đồng chí Trần
Toại về làm Bí thư Tỉnh uỷ Phú Yên thay đồng
chí Phan Lưu Thanh từ tháng 1-931
[112]
Nhưng lúc này, đồng chí Trần Suyền ở Liên Tỉnh
III chưa về kịp, Khu uỷ chỉ định đồng
chí Lương Công Huề làm Bí thư Tỉnh uỷ. Đến
tháng 10-1965, đồng chí Nguyễn Phụng Minh được
Liên Khu uỷ điều động về làm Bí thư Tỉnh
uỷ. Ngày 17-6-1966, đồng chí Nguyễn Phụng Minh
được điều về Khu V, đồng chí Trần
Suyền được Khu uỷ chỉ định làm Bí
thư Tỉnh uỷ.
[113] Đảng Cộng
sản Việt Nam. Nghị quyết
Hội nghị lần thứ 24 của BCHTW Đảng về
nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong giai
đoạn mới, tr.22-23.
[114] Dứt điểm
3 công tŕnh vệ sinh, sinh đẻ có kế hoạch, quản
lư sức khoẻ, trồng và sử dụng thuốc Nam, kiện
toàn tổ chức y tế.
[115] Nghị quyết Hội
nghị Tỉnh uỷ Phú Yên lần thứ nhất - Số
01NQ/TU ngày 30-6-1989.
(*) GĐ Thư viện
tỉnh Phú Yên, Chủ tịch Hội văn nghệ dân gian
và văn hoá các dân tộc tỉnh Phú Yên